Bản án 173/2019/HSST ngày 27/12/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 173/2019/HSST NGÀY 27/12/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 27/12/2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 175/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lâm Phi H. Tên gọi khác: Không Sinh ngày 21 tháng 02 năm 1983 tại Quảng Ngãi Hộ khẩu thường trú: Xóm H, thôn S, xã K, huyện P, tỉnh Quảng Ngãi. Nơi cư trú: Ấp H, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không Con ông T, sinh năm 1954 (đã chết) và bà T1, sinh năm 1956. Gia đình bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai. Có vợ là T2 và 01 con là Đ, sinh ngày 11/7/2019.

Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/8/2019 và chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 111 ngày 30/8/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành. Đến ngày 25/10/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giam theo Quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam số 25/QĐ-VKSLT của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành. (Có mặt) - Bị hại: Anh Trần Quốc D, sinh năm 1991.

Đa chỉ: Khu phố C, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Thủy T, sinh năm 2001.

Đa chỉ: Tổ M, khu phố V, phường P, thị xã M, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (Vắng mặt)

- Người làm chứng:

+ Ông Nguyễn Xuân A, sinh năm 1969.

Đa chỉ: Ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai.(Vắng mặt)

+ Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1984.

Đa chỉ: Ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai.(Vắng mặt)

+ Anh Trần Đức T, sinh năm 1993.

Đa chỉ: Khu phố 9, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Đồng Nai.(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17 giờ ngày 21/8/2019 Lâm Phi H đến phòng trọ của Nguyễn Xuân A tại tổ N, ấp H, xã B, huyện T để uống bia với một số người bạn của A. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày Trần Quốc D đi đá bóng về (D thuê phòng chung với A) thấy H và Nguyễn Văn S (Chuột) đang uống bia nên D cùng tham gia. Trong quá trình uống bia giữa D và H xảy ra cự cãi với nhau. Đến 21 giờ H về phòng trọ của mình cách phòng trọ của A 50m. Do bực tức về việc D nhiều lần có lời lẽ xúc phạm mình trong lúc uống bia nên H quay lại phòng của A, đi vào bếp lấy 01 con dao có cán bằng gỗ, dài khoảng 30cm, lưỡi dao dài khoảng 20cm đi lên gác thấy A và D, H nói “Mày nói ai không có tuổi” rồi cầm dao bằng tay phải chém một nhát vào lưng bên trái của D gây thương tích. Sau đó H với D giằng co với nhau làm con dao rơi xuống sàn. Sau khi được A can ngăn thì H bỏ đi, D bị thương được đi đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Bà Rịa, thành phố Vũng Tàu. Đến 09 giờ 30 phút ngày 22/8/2019 Lâm Phi H đến Công an xã B, huyện T đầu thú về hành vi cố ý gây thương tích.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0760/TgT/2019 ngày 27/8/2019 của Trung tâm pháp y Đồng Nai kết luận:

- Dấu hiệu chính qua giám định:

+ Tổn thương tràn dịch màng phổi trái đã phẫu thuật dẫn lưu hiện vẫn còn tràn dịch màng phổi trái và còn ống dẫn lưu màng phổi trái. Tỷ lệ 16%.

+ Vết thương vùng bả vai trái kích thước 8,5x0,2cm. Tỷ lệ 3%

- Tỷ lệ tổn thương cơ thể (áp dụng theo phương pháp cộng lùi) do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 19%.

- Kết luận khác:

Vật gây thương tích: vật sắc (Bút lục 19-21)

Việc thu giữ, xử lý vật chứng: 01 con dao inox dài 30cm, cán gỗ, mặt lưỡi dao ngang 10cm, dài 20cm là công cụ phạm tội đề nghị Tòa án tuyên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật (Bút lục số 11).

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình Lâm Phi H đã bồi thường cho bị hại Trần Quốc D số tiền 28.500.000 đồng, D đã làm đơn bãi nại và không yêu cầu gì thêm (Bút lục số 55-56; 63).

Trước Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T, Lâm Phi H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 197/CT-VKSLT ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Lâm Phi H về tội danh: “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo điều khoản nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 ; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lâm Phi H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thủ thách từ 04 năm đến 05 năm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Lâm Phi H đã khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở xác định: Vào lúc 17 giờ ngày 21/8/2019 Lâm Phi H đến phòng trọ của ông Nguyễn Xuân A tại tổ N, ấp H, xã B, huyện T để uống bia với một số người bạn của ông A và xảy ra mâu thuẫn với Trần Quốc D. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày H về phòng trọ của mình cách phòng trọ của ông A 50m. Do bực tức về việc D nhiều lần có lời lẽ xúc phạm mình trong lúc uống bia nên H đã quay trở lại phòng trọ của ông A và có hành vi dùng 01 con dao có cán bằng gỗ, dài khoảng 30cm, lưỡi dao dài khoảng 20cm chém một nhát vào lưng bên trái của D gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 19%.

Hành vi của bị cáo Lâm Phi H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Cố ý gây thương tích”, tội danh và hình phạt phù hợp với Điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố và viện dẫn tại Cáo trạng.

[2] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người trưởng thành có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng do mâu thuẫn với anh Trần Quốc D trong lúc uống bia và cho rằng anh D nhiều lần có lời lẽ xúc phạm mình, bị cáo đã sử dụng con dao inox cán bằng gỗ, dài khoảng 30cm, lưỡi dao dài khoảng 20cm là hung khí nguy hiểm chém một nhát vào lưng bên trái của anh D gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 19%. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến thân thể, sức khỏe của người khác, là khách thể quan trọng được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân.

Vì vậy cần có một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú, đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại; Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, đang phải nuôi mẹ của bị cáo (đã lớn tuổi, thuộc hộ cận nghèo) và có con nhỏ dưới 01 tuổi. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nghĩ không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao cho gia đình và chính quyền địa phương quản lý giáo dục bị cáo cũng đủ răn đe, đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo tự cải tạo, sửa chữa lỗi lầm. Do đó áp dụng điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

[3] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 con dao inox dài 30cm, cán gỗ, mặt lưỡi dao ngang 10cm, dài 20cm.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình Lâm Phi H đã bồi thường cho bị hại Trần Quốc D số tiền 28.500.000 đồng, anh D không có yêu cầu gì thêm.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về tính hợp pháp của các quyết định, hành vi tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều được thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lâm Phi H phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2, Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Lâm Phi H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (Năm) năm, thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lâm Phi H cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu tiêu hủy: 01 con dao inox dài 30cm, cán gỗ đã qua sử dụng. (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/11/2019 của cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành).

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét giải quyết.

Án phí HSST: Bị cáo phải nộp 200.000đ.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 173/2019/HSST ngày 27/12/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:173/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;