Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 09/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 17/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 09 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 51/2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2019 về việc "Tranh chấp ly hôn", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Dương Thị T, sinh năm 1980.

Nơi cư trú: Tổ dân phố Mỹ H, phường Quảng P, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình. Có mặt

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1977.

Nơi cư trú: Tổ dân phố Mỹ H, phường Quảng P, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 03/5/2019, bản tự khai, các biên bản hòa giải, tại phiên tòa thì nguyên đơn, chị Dương Thị T trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn L lấy nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Quảng P, huyện Quảng T, tỉnh Quảng Bình (Nay là phường Quảng P, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình) ngày 03/7/2004. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với gia đình bố mẹ anh L tại phường Quảng P. Do kinh tế gia đình khó khăn nên năm 2011 chị đã đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Sau khi trở về nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không cùng quan điểm sống, tính tình không hợp nên chị chuyển về nhà bố mẹ đẻ của chị sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy mâu thuẩn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

Về con chung: Qúa trình chung sống, vợ chồng chị có 02 con chung là Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 03/12/2005 và Nguyễn Thị Hồng D, sinh ngày 27/3/2013. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Nguyễn Thị Hồng D, giao cho anh L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Nguyễn Thị Thu H. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai, vì hiện nay cháu D đang ở với chị, cháu H đang ở với anh L.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 13/6/2019, các biên bản hòa giải, tại phiên tòa anh Nguyễn Văn L trình bày: Anh và chị Dương Thị T có quá trình tìm hiểu và đi đến kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, đúng như lời trình bày của chị T. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc tại nhà bố mẹ đẻ của anh, được một thời gian thì chị T đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan hơn 8 năm mới về. Từ khi về đến nay chị T chuyển về nhà ông bà ngoại sinh sống. Anh và gia đình bên nội khuyển nhủ nhiều lần nhưng không được. Nay chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì anh không đồng ý, anh cho rằng hiện nay anh vẫn còn tình cảm với chị T.

Về con chung: Qúa trình chung sống, vợ chồng chị có 02 con chung làNguyễn Thị Thu H, sinh ngày 03/12/2005 và Nguyễn Thị Hồng D, sinh ngày 27/3/2013. Nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn thì anh đồng ý theo ý kiến của chị T, anh có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Nguyễn Thị Thu H và giao cho chị T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Nguyễn Thị Hồng D. Không ai cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Về tài sản chung của vợ chồng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị T, anh L đều có nơi cư trú tại: Tổ dân phố Mỹ H, phường Quảng P, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình, vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị T và anh Nguyễn Văn L lấy nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 03/7/2004 tại Uỷ ban nhân dân xã Quảng P, huyện Quảng T, tỉnh Quảng Bình (Nay là phường Quảng P, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình) là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống với gia đình bố mẹ anh L ở Tổ dân phố Mỹ H, phường Quảng P, thị xã Ba Đ được một thời gian thì xảy ra mâu thuẩn, nguyên nhân là do tính tình hai vợ chồng không hợp, không cùng quan điểm sống, kinh tế gia đình khó khăn, nên năm 2011 chị T đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài, vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Đến năm 2018 chị T trở về sinh sống tại gia đình bố mẹ của chị. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị T xin ly hôn với anh L. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần để anh chị trở lại đoàn tụ, xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng không đưa lại kết quả. Vì vậy, cần xử cho chị T được ly hôn với anh L là phù hợp với khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị T và anh L có hai con chung là Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 03/12/2005 và Nguyễn Thị Hồng D, sinh ngày 27/3/2013. Sau khi ly hôn chị T có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Nguyễn Thị Hồng D, sinh ngày 27/3/2013; giao cho anh L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Nguyễn Thị Thu H sinh ngày 03/12/2005. Không ai cấp dưỡng nuôi con cho ai. Sau khi thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử xét thấy nguyện vọng của chị T là chính đáng, cần được chấp nhận và cũng phù hợp khoản 1, khoản 2 Điều 81; khoản 1, khoản 3 Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết, vì không có yêu cầu.

[5]Về án phí ly hôn: Chị Dương Thị T phải chịu theo luật định.

[6]Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147; Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Dương Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Dương Thị T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Hồng D, sinh ngày 27/3/2013, giao choanh Nguyễn Văn L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Nguyễn Thị Thu H sinh ngày 03/12/2005. Không ai cấp dưỡng nuôi con cho ai.

3. Về quan hệ tài sản: Không xem xét.

4. Về án phí: Chị Dương Thị T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn để sung vào công quỹ Nhà nước, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hànhán dân sự thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002343 ngày 03 tháng 5 năm 2019 (Chị Dương Thị T đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm).

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (09/7/2019) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử lại theo trình tự phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 09/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:17/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;