TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 17/2018/HSST NGÀY 26/04/2018 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 26 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Đức Huệ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:
Nguyễn Trọng D - Sinh ngày 04/11/2000; tại Long An. Hộ khẩu thường trú: ấp M, xã N, huyện G, tỉnh Long An. Chỗ ở hiện nay: ấp M, xã N, huyện G, tỉnh Long An. Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 9/12;
Cha: Lê Văn B, sinh năm: 1970; Mẹ: Nguyên Thi V, sinh năm: 1976;
Bị cáo chưa có vợ con;
Tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/01/2018 cho đến nay.
Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Nguyễn Thị V - Sinh năm 1976 - Địa chỉ: ấp M, xã N, huyện G, tỉnh Long An. (mẹ ruột bị cáo) (có mặt)
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Năm T - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Long An. (có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lưu Thị Mộng H - Sinh năm 1983 - Địa chỉ: 67/266 tổ 1, khu phố Y, phường U, thị xã I, tỉnh Bình Phước. (vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 06/12/2017 Nguyên Trong D nhận điện thoại tên P (do D quen từ trước), P thuê D đến cầu vượt J, Thành phố Hồ Chí Minh nhận và chạy xe mô tô do người khác phạm tội mà có về xã S, huyện K với giá là 800.000 đồng/1 lần. D biết là xe do phạm tội mà có nhưng vẫn đồng ý và đón xe buýt đến cầu vượt J, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến nơi D chờ đến khoảng 18 giờ thì có một người thanh niên lạ mặt chạy chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại Airblade, màu trắng, không nhớ biển số giao cho D. D nhận và điều khiển về đến khu phố X, thị trấn T, huyện K thì bị lực Công an kiểm tra và bắt quả tang.
Quá trình điều tra D thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của minh. D khai, trước đó khoảng một tuần D sang huyện K chơi và gặp người đàn ông tên P (không biết ro họ tên, tuổi, địa chỉ), người đàn ông này xin số điện thoại của D. Sau lần gặp đó, P điện thoại cho D yêu cầu D chạy xe thuê cho mình, nhưng D không đồng ý vì D đang có việc làm. Sau đó D thất nghiệp, không có việc làm, không có tiền tiêu xài nên D đã gọi điện thoại cho P và xin chạy xe thuê cho P, P đồng ý và dẫn D đi từ cầu Đức Huệ đến xã S để biết đường và địa điểm giao xe.
Ngoài ra, D còn khai nhân ngày 05/12/2017 D đã nhận lời và vận chuyển trót lọt 01 chiếc xe mô tô hai bánh, hiệu Wave, màu xanh, không nhớ biển số cho P nhưng chưa nhận tiền công vận chuyển.
Tang vât thu giư gôm:
- 01 xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại Airblade, màu trắng, số khung: RLH JF 2700 BY-165054, số máy: JF27E -1049335.
- 01 điện thoại di động hiệu Microsoft, màu đen.
- Tiền Việt Nam 500.000 đồng.
- 01 chìa khóa có đầu làm bằng nhựa màu đen, bên trái có khắc chữ Honda.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 172 ngày 07/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đức Huệ, xác định chiếc xe nói trên có giá trị là 17.000.000 đồng.
Qua thẩm tra, xác minh được biết xe mô tô nói trên là của bà H mua vào năm 2011 vơi giá 50.000.000 đồng. Năm 2012 (không nhớ ro ngày , tháng) bà H đi làm về dựng xe trước cửa nhà thuộc 67/266 tổ 1, khu phố Y, phường U, thị xã I, tỉnh Bình Phước khoảng 5 phút thì mất.
Xét thấy không ảnh hưởng đến quá trình điều tra xử lý vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Huệ đã ra quyết định xử lý vật chứng số 14 ngày 15/01/2018 trả lại xe cho bà H.
Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 27/02/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ đã truy tố bị cáo Nguyễn Trọng D về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ sau khi phân tích tính chất của hành vi và hậu quả xảy ra, đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Căn cứ: khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65, Điều 91, Điều 98 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng D từ 6 đến 9 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị:
- Tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Microsoft, màu đen - do bị cáo dùng liên lạc khi thực hiện hành vi phạm tội.
- Trả lại cho bị cáo: Tiền Việt Nam 500.000 đồng - là tiền lương của bị cáo.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 chìa khóa có đầu làm bằng nhựa màu đen, bên trái có khắc chữ Honda - bị cáo không yêu cầu nhận lại.
Về tránh nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt, bà H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề cập.
Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử: xử phạt bị cáo 6 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, khi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên, bị tội phạm lợi dụng xúi giục bị cáo phạm tội, cha mẹ bị cáo không còn sống chung, bị cáo phải sống với bà nội nên thiếu sự giáo dục của gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Ngày 06/12/2017 bị cáo Nguyễn Trọng D tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là một xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại Airblade, màu trắng, số khung: RLH JF 2700 BY-165054, số máy: JF27E -1049335, giá trị xe được xác định là 17.000.000 đồng từ Thành phố Hồ Chí Minh về xã S, huyện K trên đường vận chuyển đến khu phố X, thị trấn T, huyện K thì bị lực Công an kiểm tra bắt quả tang người và tang vật.
[2] Các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của Cơ quan cảnh sát điều tra và cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Hành vi tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên đều thực hiện đúng theo quy định pháp luật.
[3] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Trọng D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Đức Huệ lập lúc 21 giờ 45 phút ngày 06/12/2017, kết luận định giá tài sản số 172/KL-HĐĐG ngày 07/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đức Huệ và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Trên cơ sở đó đã có đủ bằng chứng để kết luận rằng bị cáo Nguyễn Trọng D phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999. Như vậy, cáo trạng số 11/CT- VKS ngày 27/02/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ đã truy tố bị cáo Nguyễn Trọng D với tội danh và điều luật nêu trên là có cơ sở đúng theo quy định của pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo D là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của bị cáo D không những xâm phạm đến trật tự công cộng và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà còn gây trở ngại cho công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, tạo điều kiện khuyến khích cho những người khác đi vào con đường phạm tội. Xét khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi, chưa có tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[5] Xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, do đó khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[6] Việc bị cáo trình bày ngày 05/12/2017 có vận chuyển một xe mô tô, tuy nhiên, không thu hồi được tang vật, không truy tìm được chủ sở hữu nên không áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần đối với bị cáo.
[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và mức hình phạt đối với bị cáo D là có cơ sở theo quy định pháp luật.
[8] Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo về mức hình phạt cho bị cáo là không có căn cứ chấp nhận, nhẹ hơn so với hành vi của bị cáo, chỉ chấp nhận cho bị cáo hưởng án treo.
[9] Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, xét thấy:
- Tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Microsoft, màu đen - do bị cáo dùng liên lạc khi thực hiện hành vi phạm tội.
- Trả lại cho bị cáo: Tiền Việt Nam 500.000 đồng - là tiền lương của bị cáo.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 chìa khóa có đầu làm bằng nhựa màu đen, bên trái có khắc chữ Honda - bị cáo không yêu cầu nhận lại và cũng không còn giá trị sử dụng.
(Tang vật do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Huệ đang quản lý).
[10] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H vắng mặt tại phiên tòa trong lời khai trình bày đã nhận lại tài sản do đó không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp tách ra giải quyết bằng một vụ án khác.
[11] Đối với tên P và người giao xe cho bị cáo không rõ nhân thân, lai lịch không làm việc được nên không đề cập xử lý trong vụ án này. Nhằm bỏ lọt tội phạm kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Huệ tiếp tục điều tra xử lý sau.
[12] Bị cáo Nguyễn Trọng D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65, Điều 91, Điều 98, Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm b khoản 3 Điều 106; Điều 135, Điều 136, Điều 259 và Điều 260 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miển, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
3. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng D 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng. Thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án (26/4/2018).
Giao bị cáo Nguyễn Trọng D về Ủy ban nhân dân xã N, huyện G, tỉnh Long An giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
4. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Microsoft, màu đen của bị cáo.
- Trả lại cho bị cáo: Tiền Việt Nam 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng).
- Tịch thu tiêu hủy: 01 chìa khóa có đầu làm bằng nhựa màu đen, bên trái có khắc chữ Honda.
(Tang vật do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Huệ đang quản lý).
5. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Trọng D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (ngày 26/4/2018). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được hoặc niêm yết.
Bản án 17/2018/HSST ngày 26/04/2018 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 17/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/04/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về