Bản án 170/2020/HSST ngày 22/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 170/2020/HSST NGÀY 22/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 178/2020/TLST – HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 197/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:

Đỗ Văn P, Tên gọi khác: Không; sinh ngày 28 tháng 02 năm 1995 tại Gia Lai;

Nơi cư trú: 48 T N D, Tổ 7, phường I K, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn C, sinh năm 1972 và bà Trịnh Thị Thu H, sinh năm 1971; bị cáo chưa có vợ con.; tiền án: Không; tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 25-9-2013, tại Bản án số 151/2013/HSST, Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 18 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009. Thi hành án tại Trại giam Gia Trung - Bộ Công an. Ngày 24-6-2014, chấp hành xong hình phạt tù Bị cáo Đỗ Văn P bị tạm giữ từ ngày 12-9-2020, sau đó bị tạm giam. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Chị Trịnh Thị Thu H, sinh năm 1971. Nơi cư trú: 48 đường T N D, Tổ 7, phường I K, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Văn P là người có sử dụng chất ma túy. Qua các mối quan hệ ngoài xã hội, P biết đối tượng T (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy tại khu vực chợ đêm thuộc phường D H, thành phố P. Khoảng 19 giờ ngày 11-9-2020, P nhờ bạn tên Bi (chưa rõ nhân thân, lai lịch) chở đến khu vực chợ đêm, rồi Bi đi về. Tại đây, P gặp T nên đã mua 01 gói ma túy đá với giá 1.000.000 đồng và T cho P 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Sau đó, P đi xe thồ về nhà tại số 48 đường T N D, Tổ 7, phường I K, thành phố P, lấy 01 ít ma túy ra sử dụng. Số ma túy còn lại, P cất giấu dưới nệm trong phòng ngủ của P. Đến 18 giờ 30 phút ngày 12-9-2020, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố P phối hợp với Công an phường I K tiến hành kiểm tra thì phát hiện trong phòng ngủ của P 01 gói nilon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Cơ quan điều tra đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với P; thu giữ vật chứng và niêm phong theo quy định Qua giám định, tại Kết luận giám định số 689/KLGĐ ngày 18-9-2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng dạng tinh thể trong 01 gói nilon trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 3,7354 gam” Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như những tình tiết nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 179/CT-VKS ngày 11 tháng 11 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Đỗ Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng, không thay đổi bổ sung gì và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đỗ Văn P mức án từ 3 năm 6 tháng đến 4 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì công văn 689/PC09 ngày 18-9-2020, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng và các quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp biên bản phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người chứng kiến và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Đồng thời căn cứ vào bản Kết luận giám định số 689/KLGĐ ngày 18-9-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 18 giờ ngày 12/9/2020, tại số nhà 48 đường T N D, Tổ 7, phường I K, thành phố P, khi Đỗ Văn P đang tàng trữ 3,7354 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Bị cáo Đỗ Văn P là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện đó là lỗi cố ý, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Về hành vi của bị cáo Đỗ Văn P có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Đây là vụ án “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, hành vi của bị cáo được xác định là tội phạm nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự trị an xã hội.

[4] Để có mức án thỏa đáng, ngoài việc xem xét, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của bị cáo trong vụ án để quyết định hình phạt cụ thể:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy.

nh tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Căn cứ vào quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; căn cứ vào nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần lên cho bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Xét mức án đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là phù hợp được Hội đồng xét xử chấp nhận ở mức khởi điểm của đề nghị.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” nên bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, hành vi phạm tội không liên quan đến nghề nghiệp nên HĐXX miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với chất ma túy còn lại sau khi giám định, Cơ quan giám định hoàn trả cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P trong 01 bì công văn ghi số 689/PC09 ngày 18-9-2020, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với dụng cụ mà P dùng để sử dụng ma túy, do bị bể và P đã vứt đi nên không thu giữ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về các vấn đề khác:

Đối với đối tượng tên T mà bị cáo P khai là người đã bán ma túy cho P vào ngày 11/9/2020, do P không biết rõ họ tên, lai lịch của T, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P chưa có căn cứ điều tra, xử lý. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào xác định được sẽ xem xét và xử lý sau, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với đối tượng tên Bi mà bị cáo P khai là người đã chở bị cáo đến khu vực chợ đêm để bị cáo mua ma túy, nhưng P không biết rõ họ tên, lai lịch của Bi; đồng thời, P cũng không nói cho Bi biết mục đích đến chợ đêm để mua ma túy, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P không có căn cứ điều tra, xử lý, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với bà Trịnh Thị Thu H là người ở cùng nhà với P, nhưng việc P mua ma túy mang về nhà cất giấu và sử dụng thì bà H không biết nên không có căn cứ để xử lý, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đỗ Văn P 3 (Ba) năm 6 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt là ngày 12-9-2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Xử: Tịch thu tiêu hủy 01 bì công văn ghi số 689/PC09 ngày 18-9-2020, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16-11-2020 giữa Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai và Chi cục thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai).

4. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử buộc bị cáo Đỗ Văn P phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 170/2020/HSST ngày 22/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:170/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;