Bản án 168/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 168/2020/HS-ST NGÀY 30/10/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 200/2020/TLST- HS ngày 08 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 194/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Văn S; Giới tính: Nam; Sinh năm 1990, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 35/87/29 đường C, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 35/87/29 đường C, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Huỳnh Văn H (đã chết)và bà Trương Th (Sinh năm 1960); Bị cáo có vợ tên Lê Thị Ngọc Th (Sinh năm 1986, không đăng ký kết hôn) và 02 người con (sinh năm 2015 và năm 2020).

Tiền án: Ngày 23/8/2016, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm tuyên phạt 3 năm tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” (theo Bản án số 541/2016/HSPT). Đến ngày 15/9/2018, được trại giam Long Hòa cấp giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù. Qua xác minh Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chưa chuyển Bản án đến Chi cục thi hành án dân sự huyện B để thi hành các phần án phí.

Nhân thân:

+ Ngày 27/12/2010, bị Tòa án nhân dân Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 3 năm tù về tội “Giao cấu với trẻ em” (theo Bản án số 132/2010/HSST), đến ngày 01/9/2012 chấp hành xong hình phạt tù. Qua xác minh S đã thi hành 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm vào ngày 08/5/2012.

+ Ngày 30/11/2012, bị Uỷ ban nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở chữa bệnh trong thời gian 24 tháng tại trung tâm chữa bệnh Đ.

+ Ngày 31/3/2014, Uỷ ban nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định đưa đi chữa bệnh và học nghề tại trung tâm giáo dục- Lao động xã hội P. Ngày 28/11/2014 Ủy ban nhân dân Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp sau cai nghiện.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày từ 31/12/2019 đến nay (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: bà Lê Thị Ngọc Th, sinh năm 1986. Nơi cư trú: 35/87/29 đường C, phường B, Quận T, Thành phố Hồ chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 11 giờ 40 phút, ngày 31/12/2019 Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện B phát hiện Huỳnh Văn S điều khiển xe mô tô biển số 59C2-514.68 chở phía sau Lê Thị Ngọc Thủy đang dừng đèn đỏ tại ngã tư đường Nguyễn Văn L và Trịnh Quang Ngh thuộc tổ 20, ấp 4, xã Phong Ph, huyện B, Thành phố hồ Chí Minh có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, Công an phát hiện trong túi áo khoác bên trái mà Thủy đang mặc có một bịch nylon màu đen bên trong chứa 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu và 01 gói nylon bên trong chứa 05 gói lylon nhỏ (04 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu và 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng) mà S khai nhận là ma túy dùng để bán cho người khác. Lực lượng Công an tiến hành thu giữ vật chứng và đưa S và Th về Công an xã Phong Ph lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tiến hành kiểm tra S dương tính với ma túy, Th âm tính với ma túy. Vụ việc sau đó được Công an xã Phong Ph chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B thụ lý theo thẩm quyền.

Bản kết luận giám định số 124/KLGĐ-H ngày 08 tháng 01 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Tinh thể không màu trong 05 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 15,6013g, loại Methamphetamine.

- Bột màu trắng trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,6159g, loại Heroin.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B ban đầu Huỳnh Văn S khai nhận: Bản thân nghiện ma túy, S ngày 31/12/2019 có đối tượng tên Kh (không rõ lai lịch) sử dụng số điện thoại 0786.876.975 gọi vào số điện thoại 0764.790.675 của S đặt mua 01 hộp 10 ma túy đá với giá 4.200.000 đồng và hẹn địa điểm mua bán tại ngã tư Quốc lộ 1A với đường Bùi Thanh Khiết thuộc Thị trấn Tân Túc, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh và S đồng ý. Sau đó, S điều khiển xe mô tô biển số 59C2-514.68 chở Lê Thị Ngọc Th (sống chung như vợ chồng với S) và nói với Thủy đi khám thai. Trên đường đi, tiếp tục có đối tượng nghiện tên T (không rõ lai lịch) sử dụng số điện thoại 0767.266.306 gọi cho S đặt mua 01 chỉ Heroin giá 4.600.000 đồng, hẹn địa điểm mua bán tại cầu Chợ Đệm thuộc Thị trấn Tân Túc, huyện B, S đồng ý. Sau đó, S điều khiển xe đến một con hẻm thuộc khu vực Lò Than thuộc Quận T, thành phố Hồ Chí Minh, S để Th đứng chờ ngoài đầu hẻm và điều khiển xe vào trong hẻm gặp đối tượng tên Đ (không rõ lai lịch) mua 05 gói ma túy đá giá 5.900.000 đồng rồi tiếp tục chở Th đến khu vực đường Bông S, Quận T, S để Th chờ ngoài đầu hẻm và điều khiển xe vào trong hẻm gặp người đàn ông tên T (không rõ lai lịch) mua 01 gói Heroin giá 4.300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, S bỏ toàn bộ số ma túy vừa mua được vào bịch nylon màu đen rồi bỏ vào túi áo khoác bên trái của Thủy nhưng không nói cho Th biết là gói ma túy. Khi cả hai đến ngã tư đường Nguyễn Văn L và Trịnh Quang Ngh thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang như nội dung nêu trên.

Tuy nhiên quá trình điều tra sau đó, S thay đổi lời khai và trình bày toàn bộ số ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thu giữ do S mua của người đàn ông (không rõ lai lịch) tại cầu Nhị Thiên Đ, Quận T với giá 2.000.000 đồng dùng để sử dụng cho bản thân. Việc S thay đổi lời khai không có căn cứ vì quá trình điều tra, hỏi cung, ghi âm ghi hình ban đầu S đều thừa nhận số ma túy bị thu giữ S để bán cho các đối tượng nghiện.

Đối với Lê Thị Ngọc Th khai nhận bản thân không nghiện ma túy, không biết bịch nylon màu đen mà S bỏ vào túi áo khoác Thủy đang mặc chứa ma túy. Th không tham gia vào việc mua bán trái phép chất ma túy của S. Lời khai của Th phù hợp với lời khai của S.

Tại bản cáo trạng số 136/CT-VKS ngày 31 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Huỳnh Văn S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đối với các đối tượng T, Đ là người đã bán ma túy cho S và Kh, T là người mua ma túy của S, do không xác định nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với Lê Thị Ngọc Th, do không biết bịch nylon màu đen mà S bỏ vào túi áo khoác Th đang mặc chứa ma túy. Thủy không tham gia vào việc mua bán trái phép chất ma túy của S nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B không xử lý.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm p khoản 2, khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Huỳnh Văn S từ 09 năm đến 10 năm tù; Phạt bổ sung từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

Về vật chứng đề nghị tịch thu tiêu hủy các gói ma túy, 01 áo khoác, 01 bịch ny lon. Tịch thu sung nộp ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động thu giữ của bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Văn S thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 31/12/2019 tại khu vực ngã tư đường Nguyễn Văn L và Trịnh Quang Ngh thuộc tổ 20, ấp 4, xã Phong Ph, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cơ quan công an kiểm tra Huỳnh Văn S đang điều khiển xe mô tô biển số 59C2-514.68 chở phía sau Lê Thị Ngọc Th. Qua kiểm tra, Công an phát hiện trong túi áo khoác bên trái mà Lê Thị Ngọc Th đang mặc có một bịch nylon màu đen bên trong chứa 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu và 01 gói nylon bên trong chứa 05 gói nylon nhỏ (04 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu và 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng). Căn cứ kết luận giám định ngày 08/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh thì tinh thể không màu trong 05 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 15,6013g, loại Methamphetamine và bột màu trắng trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,6159g, loại Heroin. Tại cơ quan điều tra ban đầu bị cáo Huỳnh Văn S khai nhận toàn bộ số ma túy bị thu giữ là do bị cáo mua cất giữ để bán lại cho người khác. Tuy nhiên, sau đó bị cáo thay đổi lời khai là toàn bộ số ma túy bị thu giữ là của bị cáo mua cất giữ nhằm mục đích sử dụng.

[2] Xét thấy, tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, các biên bản lấy lời khai tại công an xã Phong Ph và các biên bản ghi lời khai ban đầu tại cơ quan điều tra bị cáo Huỳnh Văn S đều thừa nhận bị cáo tàng trữ số ma túy bị thu giữ nhằm để bán cho các đối tượng tên Khanh, Tuấn. Bị cáo đã xác định rõ số điện thoại của người mua ma túy, địa điểm giao dịch để giao ma túy cho người mua và có căn cứ xác định lời khai này là trung thực tự nguyện. Các lời khai này của bị cáo Huỳnh Văn S và phù hợp với lời khai của vợ bị cáo Lê Thị Ngọc Th khai về diễn biến về thời gian trước khi bị cáo bị bắt, bị cáo chở Thủy đi mua ma túy về bán lại cho Kh, T và phù hợp với lịch sử cuộc gọi đã được kiểm tra khi thu giữ điện thoại di động của bị cáo. Do đó, có đủ căn cứ xác định bị cáo tàng trữ ma túy để nhằm mục đích bán lại nên phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Xét thấy, việc bị cáo Huỳnh Văn S thay đổi lời khai nhưng không lý giải được lý do thay đổi lời khai của mình. Mặt khác, tại các biên bản lấy lời khai, bản tự khai bị cáo trình bày sau khi bị cáo phản cung thay đổi lời khai thì bị cáo đều không ký tên xác nhận và không giải thích được lý do từ chối ký tên xác nhận này nên việc thay đổi lời khai này không có căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý và sử dụng chất ma túy của Nhà nước. Tại thời điểm phạm tội bị cáo là người trưởng thành, có năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ pháp luật cấm mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào nhưng để có thu lợi bất chính mà bị cáo cố ý thực hiện hành vi vi phạm. Hành vi của bị cáo còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác.

[4] Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Huỳnh Văn S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy có 02 chất ma túy ở thể rắn (Methamphetamine và Heroin) mà tổng khối lượng các chất từ 05 gam đến dưới 30 gam nên đây là tình tiết tăng nặng định khung được quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xét thấy, cần áp dụng hình phạt nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Bị cáo thực hành vi mua bán nhằm hưởng lợi bất chính nhưng không xác định số tiền bị cáo đã hưởng lợi bất chính để buộc bị cáo sung nộp vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, cần áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) phạt bổ sung bị cáo số tiền nhất định để nộp vào ngân sách nhà nước.

[5] Xét thấy, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không thành khẩn khai cáo, ăn năn hối cải nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017). Ngày 23/8/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm tuyên phạt 3 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (theo Bản án số 541/2016/HSPT), ngày 15/9/2018 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù nhưng đến nay chưa nộp xong phần án phí nên chưa được xóa án tích. Do đó tính lần phạm tội trong vụ án này bị cáo phạm thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017). Ngoài ra, bị cáo có nhân thân rất xấu nhiều lần bị xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và ngày 27/12/2010 bị cáo bị Tòa án nhân dân quận H, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 3 năm tù về tội “Giao cấu với trẻ em” nhưng đã được xóa án tích nên cần lưu ý khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án thu giữ gồm:

[6.1] Tinh thể không màu trong 05 gói nylon là ma túy ở thể rắn có khối lượng 15,6013 gram, loại Methamphetamine và bột màu trắng trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn có khối lượng 3,6159 gram, loại Heroin (sau giám định được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Thị Ngọc Thủy, Huỳnh Văn S, Võ Tấn Đạt và hình dấu Công an xã Phong Ph, huyện B); 01 áo khoác màu đen; 01 bịch nylon màu đen. Xét thấy các vật chứng này là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng hoặc có liên quan đến tội phạm nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6.2] Đối với 01 điện thoại di động hiệu Sam sung và 01 điện thoại di động hiệu nokia thu giữ của bị áo Huỳnh Văn S bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[6.3] Ngoài ra, cơ quan điều tra còn thu giữ tài sản của Lê Thị Ngọc Th và xác định các tài sản này không liên quan đến tội phạm nên đã trả cho chủ sở hữu tài sản vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm p khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn S 10 (mười) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2019. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng nộp vào ngân sách nhà nước.

- Về vật chứng:

+ Tịch thu và tiêu hủy: Tinh thể không màu trong 05 gói nylon là ma túy ở thể rắn có khối lượng 15,6013 gram, loại Methamphetamine và bột màu trắng trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn có khối lượng 3,6159 gram, loại Heroin (sau giám định được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Thị Ngọc Th, Huỳnh Văn S, Võ Tấn Đạt và hình dấu Công an xã Phong Ph, huyện B); 01 áo khoác màu đen; 01 bịch nylon màu đen.

+ Tịch thu nộp vào gân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Sam sung IMEI 35838410117846101 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia Model TA1017 IMEI 359016097113362.

(Các vật chứng trên Chi cục thi hành án dân sự huyện B đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/7/2020 giữa công an huyện B và Chi cục thi hành án dân sự huyện B, thành phố Hồ Chí Minh).

- Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 168/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:168/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;