Bản án 168/2020/HSST ngày 03/12/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 168/2020/HSST NGÀY 03/12/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 03 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận T, xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 152/2020/HSST ngày 19 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 194/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Lương Đức T; sinh năm 1985, tại: TP. H; Nơi đăng ký NKTT: 68 đường H V M, phường H T, quận T, TP. H; nghề nghiệp: làm lò xo; trình độ học vấn: 11/12; giới tính: Nam; dân tộc: Hoa; tôn giáo: phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lương C T, sinh năm 1961 và bà Giang T M, sinh năm 1959; vợ, con: chưa; tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 01/7/2020 đến ngày 09/10/2020 thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và có mặt tại phiên tòa.

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn H M – Văn phòng luật sư H M thuộc Đoàn luật sư TP. H (có mặt).

Người bị hại: cháu Chung N H, sinh ngày 17/12/2016; trú tại: 252/11/10 P A, phường H T, quận T, TP. H.

Người giám hộ cho cháu Chung N H: chị Chung Thị N, sinh năm 1996; trú tại: 252/11/10 P A, phường H T, quận T, TP. H (có mặt).

Người đại diện theo pháp luật của cháu Chung N H: bà Nguyễn Thị K L, ông Vũ Anh T – Chi hội luật sư Hội bảo vệ quyền trẻ em TP. H (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu Chung N H: Luật sư Trần Thị N N- Ủy viên thường vụ, Chi hội trưởng Chi hội luật sư – Hội bảo vệ quyền trẻ em TP. H (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lương Đức T là bạn trai của chị Chung Thị N, chị N có một con riêng là cháu Chung N H sinh ngày 17/12/2016.

Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 26/6/2020, sau khi T đi nhậu với bạn xong, T có đến nhà số 252/11/10 P A, phường H T, quận T P, TP. H để thăm N. Lúc này, T thấy cháu H chưa ngủ, N đang la cháu H và N kêu T dạy cháu H dùm nên T có la mắng cháu H và yêu cầu cháu H đi ngủ nhưng cháu H không nghe lời. T kêu cháu H đứng sát tường, T ngồi đối diện với cháu H, cách cháu H khoảng 70cm. Đầu tiên, T dùng ngón trỏ của bàn tay phải chỉ vào mặt cháu H và T tiếp tục la mắng cháu H. Tiếp đó, T dùng tay phải đánh lần thứ nhất một cái vào mặt bên trái của cháu H, làm đầu của cháu H đập vào tường và cháu H ngã xuống nền nhà. T kêu cháu H đứng dậy, T dùng tay trái bóp cổ và đẩy mạnh cổ của cháu H ngay khi cháu H vừa đứng dậy, làm đầu của cháu H tiếp tục đập vào tường. T đẩy cháu H ngã sang phía bên phải. T dùng cả hai tay bóp cổ và nhấc bổng cháu H lên cao (bàn chân cháu H cách nền nhà khoảng 20cm), T ép sát cháu H vào tường và giữ im được khoảng 10 giây thì T thả tay ra cho cháu H rơi tự do ngồi bệt xuống nền nhà. Thấy vậy, T kêu cháu H đứng dậy và T dùng tay trái nắm tóc cháu H khi cháu đang ngồi, kéo về phía trước. Sau đó T đẩy mạnh đầu cháu H về phía sau, làm đầu của cháu H tiếp tục đập vào tường. T dùng lời nói la mắng cháu H. Tiếp đó, T dùng tay phải đánh lần thứ hai trúng vào mặt bên trái của cháu H khi cháu H đang đứng, làm đầu cháu H tiếp tục đập vào tường. T dùng tay trái đánh lần thứ ba trúng vào mặt bên phải của cháu H khi cháu H đang đứng, làm đầu của cháu H đập vào tường và cháu H ngã xuống nền nhà. T dùng tay phải đánh lần thứ tư vào tay trái của cháu H khi cháu H vừa đứng dậy, làm cháu H ngã tiếp xuống nền nhà. T dùng tay trái đánh lần thứ năm trúng vào phần đầu của cháu H khi cháu H vừa ngã xuống nền nhà, làm đầu của cháu H tiếp tục đập vào tường.

Sau khi đánh cháu H, T quay qua nói chuyện với N (N ngồi bên phải của cháu H). Sau đó, T bỏ đi về nhà tại số 68 H V M, phường H T, quận T.

Sự việc Lương Đức T la mắng và dùng tay đánh cháu H được chị Nguyễn Thị Bích N (là chị ruột của Nguyễn Thị H N trực tiếp chứng kiến). Do quá bức xúc về hành vi đánh cháu H của T nên chị N đã dùng điện thoại di động của mình để quay lại và sau đó đoạn clip mà chị N ghi lại cảnh T đánh cháu H được đưa lên mạng xã hội với tiêu đề “Cha dượng đánh con riêng của vợ tại khu vực trường tiểu học H T, quận T, thành phố H”, gây dư luận bức xúc trong quần chúng nhân dân.

Đến ngày 29/6/2020, Công an quận T mời T về trụ sở để làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Lương Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập.

Ngày 24/8/2020, Trung tâm pháp y Sở y tế thành phố H có kết luận giám định số 780 kết luận:

“ 1. Dấu hiệu chính qua giám định:

* Theo hồ sơ bệnh án của Bệnh viện quận T ngày nhập viện 30/6/2020 và Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể lập ngày 30/6/2020:

- Đa chấn thương phần mềm đã được điều trị, hiện:

+ Không còn sưng bầm vùng thái dương phải, hai mắt, mặt trước cánh tay phải, hai cẳng tay, mặt ngoài mông phải.

Có tỉ lệ 00%.

Nghĩ nhiều do vật tày tác động.

+ Không còn dấu vết tại mặt trái, cổ trái. Có tỉ lệ 00%.

Nghĩ nhiều do vật có cạnh tác động.

+ Còn:

o Một vết tăng giảm sắc tố kích thước 3,5 x 2 cm mặt ngoài 1/3 dưới cánh tay trái (ảnh 1).

Có tỉ lệ 0,5%.

o Một diện tăng sắc tố vùng mông trái kích thước 8x7cm (ảnh 2).

Có tỉ lệ 01%.

o Một vệt tăng sắc tố mặt sau 1/3 giữa đùi phải kích thước 4x1cm (ảnh 3).

Có tỉ lệ 0,5%.

o Một vệt tăng sắc tố 1/3 giữa cẳng cH phải kích thước 3x2,2cm (ảnh 4).

Có tỉ lệ 0,5%.

Thương tích do vật tày tác động gây ra

o Một sẹo vùng trán giữa kích thước 1,2x0,2 cm (ảnh 5) Có tỉ lệ 01%.

Thương tích do vật tày, vật tày có cạnh.

o Hai vết tăng sắc tố mặt trong gối phải kích thước 1,2x0,1cm (ảnh 6.1) và 2x0,1cm (ảnh 6.2). Có tỉ lệ 0,5% mỗi vết.

Thương tích do vật có cạnh, vật tày có cạnh.

o Hai sẹo kích thước 3,5x2cm tại gót cH phải (ảnh 7) và 3,2x2cm tại gót cH trái (ảnh 8). Có tỉ lệ 02% mỗi vết. Thương tích do bỏng nhiệt.

- Chấn thương vùng khuỷu tay trái đã được điều trị, hiện:

+ Không còn dấu vết thương tích bên ngoài.

+ Hình ảnh gãy đầu trên xương trụ trên phim chụp Xquang (ảnh 9). Có tỉ lệ 10%.

Thương tích do vật tày tác động gây ra.

Cộng lùi các tỉ lệ trên theo Thông tư 22/2019/TT-BYT sẽ ra tỉ lệ 17,38%, làm tròn số sẽ là 17% (Mười bảy phần trăm).

2. Theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỉ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần:

- Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 17% (Mười bảy phần trăm).

3. Kết luận khác:

- Thông tư 22/2019/TT-BYT không qui định biến chứng về sau”.

Quá trình điều tra xác định ngày 26/6/2020, Lương Đức T có hành vi dùng tay tác động vào vùng cổ, vùng mặt, thái dương bên trái, phải của cháu Chung N H và làm đầu cháu H đập vào tường nhiều lần. Tuy nhiên, hiện chỉ còn vết sẹo vùng trán giữa kích thước 1,2 x 0,2 cm do T dùng tay đánh làm đầu của cháu H đập vào tường gây ra, có tỉ lệ 1%; Các vết còn lại có tỉ lệ 00%.

Đối với vết tăng sắc tố 1/3 giữa cẳng chân phải kích thước 3x2,2 cm (ảnh 4) có tỉ lệ 0,5%; một vết tăng sắc tố mặt sau 1/3 giữa đùi kích thước 4x1 cm (ảnh 3), có tỉ lệ 0,5%; một diện tăng sắc tố vùng mông trái, kích thước 8x7cm (ảnh 2), có tỉ lệ 1%; vết bầm mặt trước hai cẳng tay, có tỉ lệ 00%. Các thương tích này do Chung Thị N đánh cháu H trong quá trình nuôi dạy gây ra.

Riêng đối với các thương tích còn lại ở khuỷa tay trái, cánh tay phải, đùi phải, 02 gót chân thì N khai do cháu H bị té cầu thang và phỏng bô xe xảy ra trước thời điểm bị T đánh ngày 26/6/2020.

Về phần dân sự: Lương Đức T và gia đình đã hỗ trợ cho bị hại Chung N H với tổng số tiền là 20.000.000 đồng, đại diện của cháu H không có yêu cầu gì thêm.

Vật chứng thu giữ:

- 01 quần jean, màu xanh đen; 01 áo thun ngắn tay, màu xanh đen. Đây là bộ quần áo Lương Đức T mặc khi đánh cháu Chung N H.

- 01 áo thun màu hồng; 01 quần thun màu đen. Đây là bộ đồ cháu H mặc khi bị Lương Đức T đánh.

Đối với các đồ vật, tài sản trên cơ quan điều tra đã nhập kho theo phiếu nhập số 188 ngày 24/7/2020 chờ xử lý.

- Lưu hồ sơ vụ án:

+ 01 đĩa DVD bên trong chứa 01 đoạn video ghi lại hình ảnh Lương Đức T đánh bé Chung N H gây thương tích, tạm giữ của anh Nguyễn Thành L.

+ 01 đĩa DVD-R 16X 4.7GB 120Min, hiệu Ahuang, bên trong chứa 01 đoạn video có thời lượng dài 03 phút 29 giây, ghi lại hình ảnh Lương Đức T đánh bé Chung N H, tạm giữ của chị Nguyễn Thị Bích N.

Tại bản Cáo trạng số 147/CT-VKSQ.TP ngày 14 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận T đã truy tố bị cáo Lương Đức T về tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên Tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận T giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 134; điểm b,i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm k khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Lương Đức T từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề cập xử lý phần trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng.

- Bị cáo Lương Đức T đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện theo pháp luật của cháu Chung N H trình bày lời buộc tội: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Lương Đức T đã thừa nhận có hành vi bạo hành đối với cháu Chung N H và đã trực tiếp gây thương tích cho cháu H với tỷ lệ thương tật 1%. Hội bảo vệ quyền trẻ em TP. H đã gửi đơn đề nghị xử lý hình sự đối với bị cáo T, nên Viện kiểm sát nhân dân quận T ban hành Cáo trạng truy tố bị cáo T về tội Cố ý gây thương tích là phù hợp pháp luật. Đối với chị Chung Thị N là mẹ ruột của cháu H không có hành động can ngăn khi bị cáo T đánh cháu H. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tước quyền nuôi cháu H đối với chị N. Việc bị cáo T bạo hành đối với cháu H để lại hậu quả ảnh hưởng về tâm lý rất nặng về sau này. Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo T bồi thường tổn thất tinh thần 16.000.000 đồng.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu: Thống nhất về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát truy tố. Mục đích bị cáo đánh bé H nhằm khuyên bảo và dạy dỗ cháu H. Bị cáo là người chu cấp tiền bạc để nuôi cháu H. Tại địa phương bị cáo có tham gia dân quân tự vệ và được UBND phường H T, quận T tặng Giấy khen. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại để khắc phục hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức án dưới khung bị truy tố. Hiện tại bị cáo mắc bệnh trầm cảm nặng, bị cáo có nhân thân tốt. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án cải tạo không giam giữ.

- Luật sư bảo vệ quyền, Lợi ích hợp pháp cho người bị hại phát biểu: trẻ em là đối tượng được cả xã hội quan tâm và bảo vệ. Bất kỳ ai có hành vi xâm hại đến trẻ em đều phải bị pháp luật trừng trị. Bị cáo thực hiện hành vi đánh cháu H rất dã man, bóp cổ bé H, đánh vào vùng trọng yếu trên cơ thể của cháu H. Sau khi đoạn Video được đưa lên mạng xã hội gây rất nhiều bức xúc trong dư luận. Hành vi phạm tội của bị cáo bị xã hội lên án mạnh mẽ. Đề nghị Hội đồng xét xử cần có mức án thật nghiêm và xử mức án cao để răn đe bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Đối với người đại diện theo pháp luật của cháu Chung N H trong vụ án này. Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, chị N thừa nhận có quan hệ yêu đương đối với bị cáo T và bị lệ thuộc hoàn toàn về mặt vật chất. Cụ thể tiền sinh sống hàng ngày, tiền thuê phòng trọ hàng tháng đều do bị cáo T chi trả. Xét thấy, chị Chung Thị N là người bị lệ thuộc và bị chi phối hoàn toàn về mặt vật chất từ bị cáo T. Do đó, không đảm bảo quyền và Lợi ích hợp pháp của cháu H nên các cơ quan tiến hành tố tụng đã đề nghị Hội bảo vệ quyền trẻ em thành phố H cử đại diện tham gia để bảo vệ quyền và Lợi ích hợp pháp cho cháu Chung N H. Ngày 08/7/2020, Hội Bảo vệ Quyền trẻ em thành phố H đã cử ông Vũ Anh T và bà Nguyễn Thị K L làm người đại diện theo pháp luật cho bị hại Chung N H và yêu cầu xử lý hình sự đối với Lương Đức T về hành vi Cố ý gây thương tích là phù hợp.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lương Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và lời khai của những người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án. Nên có căn cứ để xác định: bị cáo Lương Đức T có quan hệ yêu đương với chị Chung Thị N (chị N là mẹ ruột của cháu Chung N H, sinh ngày 17/12/2016). Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 26/6/2020. Sau khi T đi nhậu về thì ghé qua nhà số 252/11/10 đường P A, phường H T, quận T, TP. H để thăm N. Lúc này, T thấy cháu H chưa ngủ, N đang la cháu H và N kêu T dạy cháu H dùm nên T có la mắng cháu H và yêu cầu cháu H đi ngủ nhưng cháu H không nghe lời. Lương Đức T có hành vi dùng tay tác động vào vùng cổ, vùng mặt, thái dương bên trái, phải của cháu Chung N H và làm đầu cháu H đập vào tường nhiều lần, gây thương tích cho cháu H với tỷ lệ thương tật 01% (theo kết luận giám định số 780, ngày 24/8/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế thành phố H).

Cáo trạng số 147/CT-VKSQ.TP ngày 14 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận T đã truy tố bị cáo Lương Đức T về tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ và phù hợp pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của công dân, mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương, gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội. Bị cáo có tình tiết tăng nặng là phạm tội đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất quy định tại điểm k khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Hiện nay, vấn đề bạo hành đối với trẻ em trong xã hội ngày càng nhiều, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Do đó, những hành vi xâm phạm đến trẻ em cần phải được xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục đối với những ai đang có ý định xâm hại đối với trẻ em được pháp luật và xã hội bảo vệ. Vì vậy, cần thiết xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất mức độ và hậu quả do bị cáo gây ra để có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên, khi nghị án lượng hình cũng cần cân nhắc xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo vì: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại; Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo có quá trình tham gia dân quân tự vệ tại địa phương được Ủy ban nhân dân phường H T, quận T tặng giấy khen do có thành tích trong công tác. Các tình tiết giảm nhẹ nêu trên được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[6] Đối với vết tăng sắc tố 1/3 giữa cẳng cH phải kích thước 3x2,2 cm có tỉ lệ 0,5%; một vết tăng sắc tố mặt sau 1/3 giữa đùi kích thước 4x1 cm, có tỉ lệ 0,5%; một diện tăng sắc tố vùng mông trái, kích thước 8x7cm, có tỉ lệ 1%; vết bầm mặt trước hai cẳng tay, có tỉ lệ 00%. Các thương tích này do Chung Thị N đánh cháu H trong quá trình nuôi dạy gây ra.

Riêng đối với các thương tích còn lại ở khuỷa tay trái, cánh tay phải, đùi phải, 02 gót chân thì N khai do cháu H bị té cầu thang và phỏng bô xe xảy ra trước thời điểm bị T đánh ngày 26/6/2020.

Đối với hành vi của Chung Thị N kêu T dạy dỗ cháu H và N trực tiếp chứng kiến T đánh gây thương tích cho cháu H nhưng không can ngăn vì nghĩ T đánh để dạy cháu H nên người. Ngoài ra, trước khi bị T đánh ngày 26/6/2020 thì cháu H cũng bị N đánh dẫn đến một số thương tích trên cơ thể. Hành vi này của N có dấu hiệu xâm phạm sức khỏe của người khác. Nhưng tình trạng thương tích của cháu H nhẹ, N là mẹ ruột của cháu H và trực tiếp nuôi dưỡng cháu nên chưa cần thiết xử lý đối với Chung Thị N về hành vi Cố ý gây thương tích là phù hợp.

Đối với yêu cầu của đại diện theo pháp luật của cháu H đề nghị Hội đồng xét xử tước quyền nuôi cháu H của chị N, giao cháu H cho tổ chức xã hội nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: cháu H hiện tại không có cha, chị N là mẹ ruột hiện đang nuôi cháu H. Từ sau khi cháu H bị đánh đến nay chị N vẫn nuôi dưỡng cháu H tốt. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận.

[7] Về trách nhiệm dân sự: quá trình điều tra, bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền: 20.000.000 đồng. Tại phiên tòa, đại diện theo pháp luật của người bị hại yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường tổn thất tinh thần cho cháu H, số tiền: 16.000.000 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của đại diện theo pháp luật cho cháu H. Xét thấy, việc thỏa thuận bồi thường tổn thất tinh thần giữa đại diện theo pháp luật cho cháu H và bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp pháp luật, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra thu giữ của bị cáo: 01 quần jean, màu xanh đen; 01 áo thun ngắn tay, màu xanh đen. Đây là bộ quần áo Lương Đức T mặc khi đánh cháu Chung N H; 01 áo thun màu hồng; 01 quần thun màu đen. Đây là bộ đồ cháu H mặc khi bị Lương Đức T đánh. Tại phiên tòa, bị cáo và người giám hộ của cháu H không yêu cầu nhận lại. Xét không còn giá trị sử dụng, nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

(Các đồ vật, tài sản trên cơ quan điều tra đã nhập kho theo phiếu nhập số 278 ngày 24/7/2020).

- Lưu hồ sơ vụ án:

+ 01 đĩa DVD bên trong chứa 01 đoạn video ghi lại hình ảnh Lương Đức T đánh bé Chung N H gây thương tích, tạm giữ của anh Nguyễn Thành L.

+ 01 đĩa DVD-R 16X 4.7GB 120Min, hiệu Ahuang, bên trong chứa 01 đoạn video có thời lượng dài 03 phút 29 giây, ghi lại hình ảnh Lương Đức T đánh bé Chung N H, tạm giữ của chị Nguyễn Thị Bích N.

[9] Án phí: Bị cáo phải nộp 300.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 800.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm k khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[1] Tuyên bố bị cáo Lương Đức T phạm tội: "Cố ý gây thương tích".

[2] Xử phạt bị cáo Lương Đức T 01 (một) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, nhưng khấu trừ cho bị cáo thời hạn bị tạm giam trước đó (từ ngày 01/7/2020 đến ngày 09/10/2020).

[3] Về trách nhiệm dân sự: áp dụng khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Buộc bị cáo Lương Đức T phải có trách nhiệm bồi thường tổn thất tinh thần cho cháu Chung N H, số tiền: 16.000.000 đồng (mười sáu triệu). Do chị Chung Thị N nhận thay.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành khoản tiền nêu trên thì phải chịu lãi suất phát sinh do chậm trả được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

 [4] Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 quần jean màu xanh đen; 01 áo thun ngắn tay, màu xanh đen; 01 áo thun màu hồng; 01 quần thun màu đen.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 278 ngày 24/7/2020 của Công an quận T, TP. H).

- Lưu hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD bên trong chứa 01 đoạn video ghi lại hình ảnh Lương Đức T đánh bé Chung N H gây thương tích, tạm giữ của anh Nguyễn Thành L; 01 đĩa DVD-R 16X 4.7GB 120Min, hiệu Ahuang, bên trong chứa 01 đoạn video có thời lượng dài 03 phút 29 giây, ghi lại hình ảnh Lương Đức T đánh bé Chung N H, tạm giữ của chị Nguyễn Thị Bích N.

[5] Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Lương Đức T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 800.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[6] Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, đại diện theo pháp luật của người bị hại, người giám hộ của người bị hại. Quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân thành phố H.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự , người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6; 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 168/2020/HSST ngày 03/12/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:168/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;