TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 167/2023/HS-PT NGÀY 10/05/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 10 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 474/2022/TLPT-HS ngày 30 tháng 12 năm 2022, đối với bị cáo Nguyễn Thị T và các bị cáo khác; do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 198/2022/HS-ST ngày 23-11-2022 của Tòa án nhân dân huyện L.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Thị T, sinh năm 1987 tại Đồng Nai; Giấy chứng minh nhân dân số: 27182060X, do Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 25-4-2013; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Ấp A, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Lương A1 và bà Trần Thị Mỹ D; có chồng tên Hoàng Văn T1 (đã ly hôn) và 01 con; tiền sự: Không; tiền án: Không; hiện nay, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số: 12/2023/LCĐKNCT ngày 28-01-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Thanh H, sinh năm 1986 tại Đồng Nai; Căn cước công dân số 07508600503X, cấp ngày 12/8/2021; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Ấp A, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S (đã chết) và bà Lê Thị T2; có vợ tên Phan Thanh Yến N (đã ly hôn) và 01 con; tiền sự: Không; tiền án: Không; hiện nay, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số: 13/2023/LCĐKNCT ngày 28-01-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.
3. Phạm Ngọc T3 (tên gọi khác: V), sinh năm 1986 tại Thừa Thiên Huế;
Căn cước công dân số 04608600149X, cấp ngày 29/4/2021; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Ấp A1, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Ngọc A2 và bà Nguyễn Thị G; có vợ tên Chu Thị H1 và 01 con; tiền sự: Không; tiền án: Không;
Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 125/2006/HSST ngày 07/9/2006, bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, thời hạn tù tính ngày 10/8/2006; chấp hành xong bản án ngày 29/4/2007;
Hiện nay, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số: 14/2023/LCĐKNCT ngày 28-01-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.
- Ngoài ra, vụ án còn có các bị cáo Trương Thị Thu H2 và Đỗ Thị Kiều M không có kháng cáo và không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nội dung chính:
Lúc 16 giờ ngày 19/7/2021, lực lượng Công an xã B kiểm tra hành chính nhà ông Nguyễn Đức C tại Ấp X, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai phát hiện bắt quả tang căn chòi lá phía sau nhà ông C có một số đối tượng đang tụ tập đánh bạc dưới hình thức đánh bài tiến lên miền Nam, thắng thua bằng tiền, bắt giữ Nguyễn Thanh H và Phạm Ngọc T3, còn một số đối tượng khác bỏ trốn. Thu giữ gồm 03 bộ bài tây (loại 52 lá) đã qua sử dụng, số tiền mặt 15.892.000 đồng, 03 điện thoại di động. Đến 21 giờ cùng ngày, Nguyễn Thị T và Trương Thị Thu H2 đến Công an xã B đầu thú. Ngày 22/7/2022, Đỗ Thị Kiều M đến Công an xã B khai nhận hành vi đánh bạc.
Quá trình điều tra xác định: Lúc 12 giờ ngày 19/7/2021, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thanh H, Phạm Ngọc T3, Trương Thị Thu H2 và Nguyễn Đức Chí T3, tụ tập ăn uống ở phía sau chòi lá nhà ông Nguyễn Đức C (bố mẹ ruột của T3). Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, có Đỗ Thị Kiều M đến. Sau đó, T thấy có 03 bộ bài tây 52 lá có sẵn tại chòi nên rủ mọi người chơi đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức đánh bài tiến lên Miền Nam thì tất cả đồng ý, riêng T3 không tham gia, chỉ ngồi xem.
Những người chơi quy định cách thức chơi bài như sau: Sử dụng bộ bài tây 52 lá, chia mỗi người 13 lá bài, ván đầu tiên, ai có lá “3 bích” được đánh trước theo vòng tròn từ trái qua. Giá trị quy ước với nhau là: lá bài nhỏ nhất là lá bài 3 và lớn nhất là lá bài 2, thứ tự chất bài từ nhỏ đến lớn là bích, chuồn, rô, cơ. Những người chơi đánh đến khi hết bài trên tay thì người đó thắng. Người về nhất thắng người thua về thứ tư số tiền 100.000 đồng. Người về nhì thắng người thua về ba số tiền 50.000 đồng. Trong ván đánh nếu người nào có 12 quân bài từ “A” đến “K”, 6 đôi hoặc 5 đôi liền kề, bốn quân “2” thì được gọi là “ăn trắng” và thắng của ba người còn lại mỗi người 100.000 đồng. Tứ quý hoặc 3 đôi liền kề chặt lá bài “2” đỏ thì thắng 100.000đ, chặt lá bài “2” đen thì thắng 50.000đ. Nếu khi kết thúc ván đánh mà người nào chưa đánh được quân bài nào thì gọi là “cháy” và phải đưa cho người thắng ván đó 200.000 đồng và tính thêm tiền số lá bài quân “2” còn lại. Người nào thắng bài cháy thì bỏ ra 50.000 đồng tiền xâu. Tiền xâu bỏ trực tiếp xuống chiếu bạc, dùng để mua đồ ăn chung cho cả nhóm.
Trong quá trình đánh bạc, T mang theo khoảng 14.200.000 đồng dùng đánh bạc, T lấy ra 700.000 đồng, để dưới chiếu bạc, còn lại 13.500.000 đồng cất trong túi áo, nếu thua hết 700.000 đồng sẽ tiếp tục sử dụng số tiền 13.500.000 đồng để đánh bạc, H mang theo khoảng 1.532.000 đồng dùng đánh bạc, T3 mang theo khoảng 920.000 đồng dùng đánh bạc, M mang theo số tiền 200.000 đồng dùng đánh bạc.
Đến 13 giờ 30 phút cùng ngày có Trương Thị Thu H2 mang theo 700.000 đồng đến đánh bạc nhưng do đã đủ 04 người nên H2 hùn số tiền 200.000 đồng với M để đánh bạc, M và H2 thay nhau đánh. Khi thua hết 200.000 đồng, M không tiếp tục tham gia mà ngồi xem.
Đến 16 giờ cùng ngày, H thua 200.000 đồng, bị thu giữ 1.332.000 đồng; T3 thua 650.000 đồng, bị thu giữ 270.000 đồng; khi bị bắt quả tang T bỏ hết tiền xuống chiếu bạc nên không biết thắng hay thua, riêng số tiền 13.500.000 đồng đồng do sợ bị Công an phát hiện nên T mang cất giấu trong ngăn tủ gỗ cách vị trí chiếu bạc 02 m; M thua hết tiền, không bị thu giữ; H2 thua 200.000 đồng, còn lại 500.000 đồng cất trong túi áo bỏ chạy nên không bị thu giữ.
Tổng cộng số tiền sử dụng đánh bạc bị thu giữ trên chiếu bạc và người các bị cáo là 15.892.000 đồng. Trong đó thu trên chiếu bạc là 790.000 đồng, thu trong người các bị cáo là 15.102.000 đồng (trong đó, gồm: 13.500.000 đồng T bỏ trong túi áo, khi bị Công an bắt quả tang thì T cất giấu trong ngăn tủ gỗ).
2. Quyết định của cấp sơ thẩm:
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 198/2022/HS-ST ngày 23-11-2022 của Tòa án nhân dân huyện L, đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị T, Nguyễn Thanh H, Phạm Ngọc T3, Trương Thị Thu H2 và Đỗ Thị Kiều M phạm tội “Đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 08 (tám) tháng tù.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H 06 (sáu) tháng tù.
- Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc T3 07 (bảy) tháng tù.
- Xử phạt bị cáo Trương Thị Thu H2 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Đỗ Thị Kiều M 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.
3. Kháng cáo:
Trong thời hạn luật định, các bị cáo Nguyễn Thị T, Nguyễn Thanh H và Phạm Ngọc T3 kháng cáo, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt và được áp dụng hình phạt khác không phải là hình phạt tù.
4. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:
Kiểm sát viên đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án; xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo phạm tội “Đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người và đúng tội. Các bị cáo đều có tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, áp dụng hình phạt khác không phải là hình phạt tù đối với các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tội danh:
Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Thị T, Nguyễn Thanh H và Phạm Ngọc T3 đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2] Về kháng cáo:
2.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không.
2.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tại cấp sơ thẩm: Các bị cáo “Thành khẩn khai ăn năn hối cải”; các bị cáo T và H “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”; bị cáo T đầu thú. Áp dụng quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Tại cấp phúc thẩm: Các bị cáo cung cấp đơn được chính quyền địa phương xác nhận, thể hiện hoàn cảnh khó khăn, là lao động duy nhất và phải nuôi dưỡng nhiều người thân phụ thuộc. Áp dụng cho các bị cáo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
2.3. Về hình phạt:
Bị cáo Phạm Ngọc T3 có nhân thân nhưng không cùng loại tội phạm và đã bị xét xử đã lâu (năm 2006). Các bị cáo phạm tội đồng phạm giản đơn và số tiền tham gia đánh bạc không lớn; tại cấp phúc thẩm, các bị cáo đều có tình tiết giảm nhẹ mới nêu trên, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; xử phạt tiền cũng đủ răn đe, giáo dục và thu ngân sách Nhà nước.
[3] Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Chấp nhận quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị T, Nguyễn Thanh H và Phạm Ngọc T3.
Sửa một phần về hình phạt do khách quan, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 198/2022/HS-ST ngày 23-11-2022 của Tòa án nhân dân huyện L.
1. Tội danh và hình phạt:
Xử phạt tiền các bị cáo sau đây về tội “Đánh bạc”, sung vào công quỹ Nhà nước:
1.1. Các bị cáo Nguyễn Thị T và Nguyễn Thanh H:
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T phải nộp 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H phải nộp 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).
1.2. Bị cáo Phạm Ngọc T3:
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc T3 phải nộp 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).
2. Về án phí:
Các bị cáo Nguyễn Thị T, Nguyễn Thanh H và Phạm Ngọc T3 không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Quyết định của bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Trương Thị Thu H2 và Đỗ Thị Kiều M, biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 167/2023/HS-PT về tội đánh bạc
Số hiệu: | 167/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/05/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về