TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 167/2017/HSST NGÀY 06/12/2017 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 12 năm 2017, tại khu vực Chợ đầu mối nông sản thực phẩm Hóc Môn thuộc xã Xuân Thới Đông, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự đã thụ lý số: 150/2017/HSST ngày 02 tháng 10 năm 2017 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Thành N - sinh năm: 1994; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp M, xã C, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Ấp 3, xã S, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 3/12; nghề nghiệp: không; con ông Nguyễn Thành A (chết) và bà Nguyễn Thị Kim L; tiền án: không; tiền sự: Bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng theo Quyết định số: 293/2015/QĐ-TA ngày 20/10/2015; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 18/6/2017. (Có mặt)
2. Họ và tên: Nguyễn Thanh L - sinh năm: 1996; nơi đăng ký hộ khẩuthường trú: ấp M, xã C, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Ấp 3, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: không; con ông Nguyễn Thanh L và bà Nguyễn Thị Minh H; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 19/6/2017. (Có mặt)
Những người tham gia tố tụng:
* Người bị hại:
1. Anh Nguyễn Gia H - sinh năm: 1997. (Vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp 1, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Chị Nguyễn Ngọc T - sinh ngày: 11/10/1999. (Vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp 1, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Đỗ Ngọc T - sinh năm: 1985. (Vắng mặt)
Địa chỉ: 80F đường M, Ấp 7, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Anh Nguyễn Hoàng N - sinh năm: 1998. (Vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp 3, xã S, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN THẤY
Các bị cáo Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L bị Viện Kiểm sát nhân dân Huyện Hóc Môn truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 17/6/2017, Nguyễn Thành N điều khiển xe gắn máy biển số: 53X7 - 6930 chở Nguyễn Thanh L phía sau. Khi đến khu vực đồng ruộng thuộc Tổ 18, Ấp 4, xã S, huyện H, phát hiện anh Nguyễn Gia H và bạn gái là chị Nguyễn Ngọc T đang ngồi trên xe gắn máy tâm sự nên N rủ L chiếm đoạt tài sản của H và T thì L đồng ý. N đưa cho L 01 con dao bằng kim loại dài khoảng 15cm rồi chở L đến chỗ H dừng xe. L bước xuống dùng tay đánh vào bụng, lưng của H và nói: “Có phải lúc chiều mày đánh em thằng bạn tao đúng không” thì H nói: “Không phải, mấy anh nhầm người rồi”. Lúc này H bước xuống xe, L rút dao ra cầm ở tay buộc H phải đưa tài sản. Vì lo sợ nên H đã đưa chiếc điện thoại di động hiệu iPhone 5S màu trắng cho N. N tiếp tục buộc T đưa điện thoại di động và tiền nhưng T chỉ có 30.000 đồng nên L đã lấy số tiền này. Sau đó, cả hai tẩu thoát và mang điện thoại di động vừa cướp được bán cho anh Đỗ Ngọc T tại cửa hàng điện thoại di động Phú Minh thuộc Ấp 7, xã Xuân Thới Thượng, Huyện Hóc Môn với giá 800.000 đồng và chia nhau tiêu xài hết.
Qua truy xét, Cơ quan điều tra Công an huyện Hóc Môn đã triệu tập Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L đến làm việc và cả hai đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Riêng anh Đỗ Ngọc T khi mua điện thoại không biết do phạm tội mà có nên không có cơ sở để xử lý. Đồng thời, anh T giao nộp lại chiếc điện thoại, Cơ quan điều tra đã trả cho người bị hại.
Tại Kết luận định giá tài sản số: 163/2017 ngày 27 tháng 7 năm 2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hóc Môn xác định 01 điện thoại di động hiệu iPhone 5S có giá 2.000.000 đồng.
Vật chứng thu giữ:
- 01 chiếc xe gắn máy hiệu Honciti, biển số: 53X7 - 6930, số khung: 0005651, số máy: 00704999. N khai nhận chiếc xe trên của em trai là Nguyễn Hoàng N1 cho N mượn. Việc N dùng xe đi cướp tài sản thì N1 không biết. Qua xác minh thể hiện xe do ông Yến Minh L đứng tên chủ sở hữu, ông L khai đã bán giấy tay cho ông Trần Hoàng S. Sau một thời gian sử dụng, ông S đã bán lại người khác nhưng không nhớ rõ là ai.
- 01 con dao kim loại màu trắng dài khoảng 15cm.
Tại Bản cáo trạng số: 155/Ctr-VKS ngày 02 tháng 10 năm 2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn giữ quyền công tố tại phiên tòa xác định: Căn cứ vào lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai tại phiên tòa hôm nay của các bị cáo cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L phạm tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo N từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù, xử phạt bị cáo L từ 07 năm đến 08 năm tù.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa,bị cáo Nguyễn Thành N khai nhận: Khoảng chiều ngày 17/6/2017, bị cáo N điều khiển xe gắn máy biển số: 53X7 - 6930 chở bị cáo L đến khu vực đồng ruộng thuộc xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, thì phát hiện một cặp nam nữ đang ngồi trên xe gắn máy tâm sự. N rủ L cướp tài sản và đưa cho L 01 con dao bằng kim loại dài khoảng 15cm làm vũ khí. Sau đó, L xuống xe dùng tay đánh vào bụng, lưng của người thanh niên và rút dao ra cầm ở tay. N buộc người thanh niên đưa chiếc điện thoại di động hiệu iPhone 5S màu trắng và lấy của người phụ nữ 30.000 đồng. Sau đó, cả hai tẩu thoát và mang điện thoại di động bán tại cửa hàng điện thoại thuộc xã Xuân Thới Thượng, Huyện Hóc Môn với giá 800.000 đồng chia nhau tiêu xài hết, còn số tiền 30.000 đồng thì N lấy đổ xăng xe.
Sau đó, Cơ quan điều tra Công an huyện Hóc Môn đã triệu tập các bị cáo đến để làm việc và xử lý đúng như nội dung Cáo trạng truy tố.
Bị cáo Nguyễn Thanh L thừa nhận cùng với Nguyễn Thành N cướp chiếc điện thoại di động và số tiền 30.000 đồng của cặp nam nữ vào Chiều ngày 17/6/2017 tại khu vực đồng ruộng thuộc xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn đúng như lời khai của Nguyễn Thành N tại phiên tòa và nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.
Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại Nguyễn Gia H, Nguyễn Ngọc T, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Đỗ Ngọc T, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở chứng minh vào chiều ngày 17/6/2017, các bị cáo Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L đã có hành vi dùng vũ lực và dùng con dao bằng kim loại thuộc loại vũ khí nguy hiểm đe dọa làm cho người bị hại lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, Bản cáo trạng số: 155/Ctr-VKS ngày 02 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
Điều 133 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
2, Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
...
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;”
Áp dụng điều luật được viện dẫn nêu trên cho thấy, hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật với lỗi cố ý trực tiếp, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo N có nhân thân xấu, có 01 tiền sự từng bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng theo Quyết định số: 293/2015/QĐ-TA ngày 20/10/2015. Trong vụ án này, bị cáo N là người khởi xướng, rủ rê và là người trực tiếp chiếm đoạt tài sản của người bị hại; bị cáo L là người cầm hung khí tấn công, uy hiếp tinh thần người bị hại để bị cáo N chiếm đoạt tài sản, nên vị trí vai trò của các bị cáo ngang nhau. Do đó, Hội đồng xét xử cần có mức án tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo để có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét khi phạm tội bị cáo L chưa có tiền án, tiền sự; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Từ đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.
Ý kiến đề nghị áp dụng hình phạt đối với bị cáo như đã nêu trên của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn là phù hợp, nên được Hội đồng xét xử chấp thuận.
Đối với anh Đỗ Ngọc T, do không biết chiếc điện thoại di động bị cáo N bán là tài sản do phạm tội mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự là phù hợp, nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.
Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu iPhone 5s màu trắng, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp.
- Đối với 01 con dao kim loại màu trắng dài khoảng 15cm không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 chiếc xe gắn máy hiệu Honciti, biển số: 53X7 - 6930, số khung: 0005651, số máy: 00704999 do ông Yến Minh L đứng tên chủ sở hữu. Qua xác minh, ông L khai đã bán giấy tay cho ông Trần Hoàng S. Ông S đã bán lại người khác nhưng không nhớ rõ là ai. Bị cáo Nguyễn Thành N là người điều khiển xe, ông Nguyễn Thành N1 là người quản lý, sử dụng xe, nhưng không cung cấp được giấy tờ nào chứng minh đang sử dụng hợp pháp. Do đó, Hội đồng xét xử giao tang vật nêu trên cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục quản lý để tiến hành thủ tục đăng báo tìm chủ sở hữu và xử lý theo quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu bồi thường về dân sự, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Đối với số tiền bán chiếc điện thoại di động cho anh Đỗ Ngọc T 800.000 đồng là tiền do các bị cáo phạm tội mà có, anh T không có yêu cầu nhận lại, nên cần buộc bị cáo nộp lại sung quỹ Nhà nước.
Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L phạm tội Cướp tài sản”.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thành N 09 (chín) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 18/6/2017.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thanh L 08 (tám) năm, 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 18/6/2017.
Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự;
Tịch thu tiêu hủy 01 con dao kim loại màu trắng dài khoảng 15cm.
Giao 01 chiếc xe gắn máy hiệu Honciti, biển số: 53X7 - 6930, số khung: 0005651, số máy: 00704999 cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục quản lý để tiến hành thủ tục đăng báo tìm chủ sở hữu và xử lý theo quy định của pháp luật. Nếu trong thời hạn 01 (một) năm kể từ ngày cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn thông báo tìm kiếm chủ sở hữu, mà chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đối với chiếc xe gắn máy nêu trên có yêu cầu thì sẽ được xem xét theo thủ tục tố tụng dân sự; hết thời hạn nêu trên, chiếc xe gắn máy hiệu Honciti, biển số: 53X7 - 6930, số khung: 0005651, số máy: 00704999 được sung quỹ Nhà nước.
Vật chứng của vụ án do Công an huyện Hóc Môn đang quản lý theo Lệnh nhập kho vật chứng số: 251/LNK-CQĐT-TTXH ngày 11/9/2017 của Công an huyện Hóc Môn.
Buộc các bị cáo Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L mỗi bị cáo phải nộp số tiền 415.000đ (bốn trăm mười lăm nghìn đồng) là tiền do bị cáo phạm tội mà có để sung quỹ Nhà nước.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong khoản tiền do phạm tội mà có, hàng tháng các bị cáo Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Nguyễn Thành N và Nguyễn Thanh L mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 167/2017/HSST ngày 06/12/2017 về tội cướp tài sản
Số hiệu: | 167/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về