Bản án 166/2018/HS-PT ngày 12/04/2018 về tội tổ chức đánh bạc và đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 166/2018/HS-PT NGÀY 12/04/2018 Ề TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC VÀ ĐÁNH BẠC

Trong ngày 12 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 133/2018/HSPT ngày 09/3/2018 đối với bị cáo Giang Văn A do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2018/HSST ngày 19/01/2018 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Từ Thị B, giới tính: nữ; sinh năm 1974 tại Vĩnh Long; trú tại: ấp A, xã A1, huyện A2, tỉnh Vĩnh Long; chỗ ở: đường B1, khu phố B2, phường B3, quận B4, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: không; con ông Từ Văn C và con bà Trần Thị D; hoàn cảnh gia đình: bị cáo có chồng và 02 người con (con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2004); tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/08/2017 đến ngày 27/11/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ biện pháp “Tạm giam” sang biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

2. Bùi Thị E, giới tính: nữ; sinh năm 1972 tại Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: đường E1, khu phố E2, phường E3, quận E4, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: nội trợ; con ông Bùi Văn K1 và con bà Nguyễn Thị G; hoàn cảnh gia đình: bị cáo có chồng và 02 người con (con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 2001); tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 25/11/1991, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 08 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/08/2017 đến ngày 08/09/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ biện pháp “Tạm giam” sang biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa cho các bị cáo:

Luật sư V, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, làm việc tại Văn phòng Luật sư V1 bào chữa cho bị cáo Từ Thị B và bị cáo Bùi Thị E (Luật sư V có mặt tại phiên tòa).

- Các bị cáo không kháng cáo, không bị kháng nghị: Thái Thị H, Nguyễn Thị Bích K, Nguyễn Ngọc M, Ngô Thị N, Phạm Thị O, Nguyễn Thị P, Mai Thị Q, Trần Thị R.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 30/08/2017, tại phòng ngủ thứ nhất tại nhà của Từ Thị B, địa chỉ số C1, hẻm C2, đường C3, phường C4, quận C5, Thành phố Hồ Chí Minh, có Thái Thị H, Nguyễn Thị Bích K, Trần Thị R, Ngô Thị N, Nguyễn Ngọc M chơi bài tứ sắc ăn thua bằng tiền. Tại đây, B cung cấp bài tứ sắc, tấm vải, tấm bạt và nước uống cho những đối tượng đánh bạc. Cách thức chơi là mỗi người bỏ ra 600.000 đồng đậu chến đánh bài và bỏ tiền xâu cho B là 20.000 đồng/người. Các đối tượng này sử dụng từ 600.000 đồng đến 1.530.000 đồng để đánh bạc.

Đến khoảng 13 giờ cùng ngày 30/08/2017, tại phòng ngủ thứ hai tại nhà của B, có Bùi Thị E, Nguyễn Thị P, Phạm Thị O, Mai Thị Q và B bắt đầu chơi bài tứ sắc thắng thua bằng tiền với nhau. Các đối tượng này sử dụng từ 1.200.000 đồng đến 4.400.000 đồng để đánh bạc. Đối với B chỉ đánh bạc ở chến thứ nhất, sau đó B nghỉ chơi và Q vào thay B.

Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi các đối tượng nêu trên đang đánh chến thứ ba thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ tổng số tiền sử dụng đánh bạc tại sòng thứ nhất là 5.820.000 đồng và sòng thứ hai là 11.200.000 đồng.

Theo Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2018/HSST ngày 31/01/2018 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Từ Thị B phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và tội “Đánh bạc”; bị cáo Bùi Thị E phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xử phạt: Từ Thị B 01 (một) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, nhưng được trừ vào thời gian tạm giam trước từ ngày 30/8/2017 đến 27/11/2017.

- Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xử phạt: Bùi Thị E 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Ngoài ra, bản án còn tuyên phạt Phạm Thị O, Nguyễn Thị P, Mai Thị Q cùng mức án 09 tháng tù, Thái Thị H, Nguyễn Thị Bích K, Nguyễn Ngọc M, Ngô Thị N, Trần Thị R cùng mức án 06 tháng tù nhưng đều cho hưởng án treo cùng về tội “Đánh bạc”, đồng thời tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 31/01/2018 Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 05/02/2018 bị cáo Từ mThị B và bị cáo Bùi Thị E có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản án sơ thẩm đã thể hiện, bị cáo E giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo, còn bị cáo B thay đổi yêu cầu kháng cáo là xin được giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: sau khi phân tích hành vi của bị cáo theo nội dung của bản án sơ thẩm, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Luật sư V bào chữa cho các bị cáo đồng ý với tội danh truy tố các bị cáo và Luật sư chỉ trình bày về các tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo, đó là: cả hai bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh của hai bị cáo hiện nay rất khó khăn, cả hai bị cáo hiện tại đều là một mình nuôi con nhỏ còn đang tuổi đi học vì bị cáo E đã ly hôn còn chồng của bị cáo B đã bỏ đi; bị cáo B hiện đang bị bệnh và con của bị cáo cũng đang bị bệnh liên quan đến thần kinh. Từ đó Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, để các bị cáo có thể chăm sóc, nuôi dạy các con của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào ngày 30/08/2017, Từ Thị B đã tổ chức cho mười đối tượng đánh bạc bằng hình thức chơi bài tứ sắc thắng thua bằng tiền tại hai phòng ngủ của mình ở địa chỉ số C1, hẻm C2, đường C3, phường C4, quận C5, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, B cung cấp bài tứ sắc, tấm vải, tấm bạt và nước uống cho những đối tượng đánh bạc và thu tiền xâu. Tại phòng ngủ thứ hai, ngoài việc tổ chức cho các đối tượng đánh bạc thì bản thân B là người trực tiếp đánh bạc cùng với các đối tượng, nhưng B chỉ đánh bạc ở chến thứ nhất, sau đó B nghỉ và người khác vào thay B tiếp tục chơi. Công an đã bắt quả tang và thu giữ tổng số tiền sử dụng đánh bạc tại sòng thứ nhất là 5.820.000 đồng và sòng thứ hai là 11.200.000 đồng.

Với các hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Từ Thị B về tội “Tổ chức đánh bạc” và tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 248 và xét xử bị cáo Bùi Thị E về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Ngày 31/01/2018, Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 05/02/2018 các bị cáo Từ Thị B, Bùi Thị E làm đơn kháng cáo là trong hạn luật định nên hợp lệ.

[3] Xét nội dung kháng cáo:

Bị cáo Từ Thị B đã có hành vi tổ chức cho các đối tượng đánh bạc tham gia đánh bạc ăn thua bằng tiền tại nhà của mình để thu tiền xâu, đồng thời bị cáo cũng trực tiếp tham gia đánh bạc ăn tiền tại sòng bạc thứ hai cùng với bị cáo Bùi Thị E và các đối tượng khác. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, an toàn xã hội nên cần có mức hình phạt nghiêm đối với các bị cáo.

[4] Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét đến hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh và nhân thân của bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo Từ Thị B và bị cáo Bùi Thị E đều có tình tiết giảm nhẹ là thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tình tiết giảm nhẹ này thì Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho các bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Từ Thị B bổ sung tài liệu về việc bị cáo bị bệnh, một mình bị cáo phải chăm sóc con nhỏ bị bệnh rối loạn thần kinh để xem xét thêm cho yêu cầu kháng cáo của bị cáo. Trong vụ án này, bị cáo B đã có hành vi đánh bạc, nhưng chỉ tham gia chơi 01 ván. Xét hành vi vi phạm, tính chất, mức độ của hành vi và hậu quả xảy ra cùng các tình tiết giảm nhẹ như đã nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt đối với tội danh “Đánh bạc”.

Đối với bị cáo Bùi Thị E, vào năm 1991 đã bị xét xử về hành vi “Vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng” nhưng hành vi vi phạm này đã xảy ra rất lâu (cách đây đã 27 năm) và lỗi trong hành vi vi phạm đó là lỗi vô ý. Xét thấy, bị cáo E có nơi cư trú rõ ràng, bản thân bị cáo Tâm hiện nay có hoàn cảnh khó khăn, một mình chăm sóc con nhỏ còn đang đi học. Do đó, không cần thiết phải cách ly bị cáo Tâm ra khỏi đời sống xã hội, giữ nguyên mức hình phạt tù, nhưng cho bị cáo hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo chăm sóc, giáo dục con còn nhỏ.

Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và sửa bản án theo hướng cho bị cáo E được hưởng án treo và giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo B.

[5] Lập luận trên đây cũng là căn cứ không chấp nhận lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c, e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và sửa bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Từ Thị B phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”, bị cáo Bùi Thị E phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xử phạt: Từ Thị B 01 (một) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, 03 (ba) tháng tù về tội “Đánh bạc”, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, nhưng được trừ vào thời gian tạm giam trước từ ngày 30/8/2017 đến 27/11/2017.

- Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt: Bùi Thị E 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân phường E3, quận E4, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

- Áp dụng Luật phí và Lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

Các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo Bùi Thị E)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

534
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 166/2018/HS-PT ngày 12/04/2018 về tội tổ chức đánh bạc và đánh bạc

Số hiệu:166/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;