Bản án 165/2020/HSST ngày 16/11/2020 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 165/2020/HSST NGÀY 16/11/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 16 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 147/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 628 /2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Ngô Chí T; sinh ngày 07/8/1986 tại Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ; nơi ĐKHKTT: Khu A, xã PH, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ; chỗ ở hiện nay: Tổ H, khu C, phường GC, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn B (đã chết) và bà Đỗ Thị D; có vợ là Vũ Thị V và 01 con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/04/2020 đến ngày 14/04/2020 được hủy quyết định gia hạn tạm giữ và ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã PH, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại xã PH, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 00 ngày 05/4/2020 tại khu A, phường VP, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu - Công an tỉnh Phú Thọ tiến hành kiểm tra xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning màu bạc, biển kiểm soát 29A - 521.12 do Ngô Chí T điều khiển. Tại thời điểm kiểm tra, trên xe còn có anh Phạm Văn C – sinh năm 1973, có địa chỉ tại khu A, phường DL, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, phát hiện tại ghế sau xe ô tô có 03 thùng cát tông màu vàng nâu và tại cốp trước bên ghế phụ của xe phát hiện 03 bao thuốc lá nhãn hiệu 555. Tổ công tác đã kiểm tra 03 thùng cát tông, trong mỗi thùng cát tông có 50 cây thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 đều không dán tem nhập khẩu (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu thuốc). Như vậy, tổng số thuốc lá trong 03 thùng cát tông và tại cốp trước bên ghế phụ của xe là 1503 bao, tại chỗ Ngô Chí T tự khai nhận bên trong các thùng cát tông đều là thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất, T mua về để bán kiếm lời. Vật chứng thu giữ:

150 cây thuốc lá nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất để trong 03 thùng bìa cát tông màu vàng nâu đã được niêm phong và 03 bao thuốc lá nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất để trong 01 bao bì cây thuốc lá đã được niêm phong; 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA Morning, màu sơn bạc biển kiểm soát 29A - 521.12; 02 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Ngô Chí T:

01 đăng ký xe và 01 đăng kiểm xe ô tô 29A – 521.12; 01 giấy phép lái xe hạng B2 mang tên Ngô Chí T; 01 thẻ ATM của Ngân hàng Techcombank mang tên Ngô Chí T. Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu đã tiến hành lập biên bản sự việc và thu giữ vật chứng nêu trên theo quy định.

Ngày 07/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Phú Thọ đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 69 đối với 1503 bao thuốc lá thu giữ của Ngô Chí T. Tại Bản kết luận giám định số 2021/C09-P4 ngày 07/4/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Toàn bộ 1503 bao thuốc lá (mỗi bao chứa 20 điếu) đều mang nhãn hiệu “ BLEND NO.555 GOLD”, không dán tem nhập khẩu gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu “BLEND NO.555 GOLD” được sản xuất tại nước ngoài. Theo Thông tư 124/2007/TT-BTC ngày 26/10/2007 của Bộ Tài chính thuốc lá điếu nhập khẩu vào Việt Nam phải có “tem thuốc lá điếu nhập khẩu” do Bộ Tài chính nước CHXHCN Việt Nam phát hành và dán trên từng bao.

Tại Cơ quan điều tra, Ngô Chí T khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 22 giờ 30 ngày 31/3/2020, do có nhu cầu mua thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất để bán kiếm lời, T sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, sim số 0903.781.986 đăng nhập ứng dụng Zalo của T - tên “L” tìm kiếm và liên hệ với một người nam giới không quen biết ở thành phố Hồ Chí M có tên Zalo “M” (số điện thoại đăng ký Zalo 0586.200.522) để thỏa thuận mua bán thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất. Sau nhiều lần nhắn tin qua Zalo thì sau này có số điện thoại 0964.022.977 liên lạc trực tiếp với với T để trao đổi mua bán, T lưu số điện thoại này trong danh bạ là “tlsg”. T đặt mua của người này 150 cây thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất với giá 215.000 đồng (Hai trăm mười lăm nghìn đồng)/1 cây thuốc lá thì người này đồng ý bán cho T. Hai bên thống nhất việc giao hàng và thanh toán tiền hàng được gửi thông qua dịch vụ chuyển phát nhanh của bưu điện. Khoảng 15 giờ ngày 01/4/2020, tại bưu cục Tân Phú có địa chỉ tại số a Đường Đ, phường T, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh, chị Nguyễn Thị Cẩm T - sinh năm 1985 trú tại số a, phường V, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang là nhân viên của bưu cục đã tiếp nhận 03 kiện hàng đã được đóng gói kín từ một nam giới không biết tên, trên các kiện hàng gửi đi đều ghi thông tin người gửi là Trần Văn C - địa chỉ: A đường T, phường T, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh, số điện thoại 0586.200.522 đến địa chỉ nhận là Anh P, địa chỉ: Ngõ a, C, G, Việt Trì, Phú Thọ, số điện thoại 0903.781.986 và yêu cầu bưu điện khi giao hàng sẽ thu hộ số tiền 32.250.000 đồng. Khi tiếp nhận, chị T không kiểm tra hàng hóa bên trong các kiện hàng, không kiểm tra giấy tờ tùy thân của người gửi. Đến ngày 04/4/2020, 03 kiện hàng trên được chuyển đến Trung T khai thác vận chuyển bưu điện tỉnh Phú Thọ thuộc khu Công nghiệp Thụy Vân, thành phố Việt Trì Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Nhân viên bưu điện đã liên hệ với T bằng số điện thoại được ghi trên kiện hàng để T nhận hàng. Đến khoảng 15 giờ ngày 05/4/2020, T điều khiển xe ô tô nhãn hiệu KIA morning BKS: 29A - 521.12 đến Trung T khai thác vận chuyển bưu điện tỉnh Phú Thọ nhận hàng, trên đường đi T gặp anh Phạm Văn C là bạn của T, T rủ anh C đi cùng nhưng không nói rõ mục đích đi làm gì, anh C đồng ý. Khi T đến Trung T khai thác vận chuyển bưu điện tỉnh Phú Thọ thì anh Nguyễn Xuân T- sinh năm 1990, trú tại khu a, thị trấn H, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ là nhân viên bưu điện tỉnh Phú Thọ trả hàng cho T, T cung cấp thông tin người nhận trùng khớp với thông tin trên các kiện hàng nên anh T đã trả 03 kiện hàng này cho T và yêu cầu ký vào các bản kê bưu gửi đi phát đồng thời thu hộ số tiền 32.250.000 đồng. Số tiền cùng bản kê bưu gửi đi phát đã được nhân viên của bưu điện nộp vào hệ thống trả cho người gửi theo quy định. Sau khi nhận được số thuốc lá này, T cho 03 thùng thuốc lá vào ghế sau xe ô tô đem về để bán, khi đi đến đoạn đường thuộc khu a, VP, Việt Trì, Phú Thọ thì Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu - Công an tỉnh Phú Thọ kiểm tra phát hiện và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Sau khi Trung T khai thác vận chuyển bưu điện tỉnh Phú Thọ thông báo trên hệ thống tra cứu định vị về việc đã thu tiền, ngày 06/4/2020, nhân viên Tổng công ty chuyển phát nhanh bưu điện – Công ty cổ phần tại thành phố Hồ Chí Minh đã chi trả cho người đến nhận tiền có giấy chứng minh nhân dân số 212794005 do Công an tỉnh Quảng Ngãi cấp ngày 03/11/2014 mang tên Trần Văn C – sinh năm 1998, trú tại HT, NH, Quảng Ngãi số tiền: 32.250.000 đồng.

Ngoài lần mua số thuốc lá trên, Ngô Chí T còn khai nhận đã 02 lần thực hiện hành vi mua thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất để bán với cách thức tương tự như trên, cụ thể:

Trong hai ngày 22/02/2020 và 26/2/2020 cũng bằng hình thức như trên, T liên hệ qua mạng xã hội Zalo với người dùng có tên là “M” đặt mua 250 cây thuốc là điều nhãn hiệu 555 trong đó ngày 22/2/2020 T đặt mua 200 cây; ngày 26/2/2020 T đặt mua 50 cây. Ngày 25/2/2020 T nhận được 04 kiện hàng tại tại Trung T khai thác vận chuyển bưu điện Tỉnh Phú thọ và trả số tiền mua hàng là 37.500.000đ cho nhân viên bưu điện. Thông tin người gửi 4 kiện hàng cho T được làm rõ tại Bưu cục Tân phú là Lê Quốc B, địa chỉ B, phường A, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 26/2/2020 chị Phạm Thị Thanh H nhân viên Tổng công ty chuyển phát nhanh bưu điện- Công ty cổ phần thành phố Hồ Chí Minh đã chi trả số tiền 37.500.000đ cho người đến nhận tiền có giấy chứng minh nhân dân số 212794005 do CA Tỉnh Quãng Ngãi cấp ngày 23/5/2017 mang tên Lê Quốc B, HKTT HT, NH, Quảng Ngãi.

Ngày 29/2/2020 T nhận được 01 kiện hàng tại tại Trung T khai thác vận chuyển bưu điện Tỉnh Phú thọ và trả số tiền mua hàng là 11.250.000đ cho nhân viên bưu điện. Thông tin người gửi kiện hàng cho T được làm rõ tại Bưu cục Nguyễn Công Trứ có địa chỉ tại số A, đường N, phường N, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh là Lê Quốc B, địa chỉ BL, phường B, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, số điện thoại 0908 898 695. Anh Phạm Phú Q, sinh năm 1985 có HKTT tại C, phường C, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh là nhân viên của Bưu cục tiếp nhận kiện hàng này. Ngày 02/3/2020 chị Phạm Thị Thanh H nhân viên Tổng công ty chuyển phát nhanh bưu điện- Công ty cổ phần thành phố Hồ Chí Minh đã chi trả số tiền 11.250.000đ cho người đến nhận tiền có giấy chứng minh nhân dân số 212794005 do CA Tỉnh Quảng Ngãi cấp ngày 23/5/2017 mang tên Lê Quốc B, HKTT HT, NH, Quảng Ngãi.

T khai toàn bộ số thuốc lá mua được trong hai ngày 20; 26/2/2020 T đã bán cho nhiều người, nhiều cửa hàng trên địa bàn Tỉnh Phú thọ không nhớ cụ thể. T chỉ nhớ bán cho chị Phạm Thị H, sinh năm 1982 ở tổ a, phố V, phường B, thành phố Việt Trì, Tỉnh Phú Thọ số lượng 04 cây = 40 bao thuốc lá nhãn hiệu 555 với số tiền 880.000đ. Còn lại 03 bao chưa kịp bán thì bị thu giữ cùng lần phạm tội ngày 5/4/2020 như đã nêu trên.Tổng số tiền T thu được sau khi bán hết số thuốc lá mua về hai ngày 20 và 26/2/2020 là 58.670.000đ.

Cơ quan CSĐT Công an thành phố Việt Trì đã tiến hành xác minh thông tin liên quan đến đối tượng T khai đã gửi số thuốc lá nêu trên tại địa chỉ: a, phường B, quận Bình Tân, TP.Hồ Chí Minh của Lê Quốc B và địa chỉ: A đường T, phường T, quận Tân Phú, TP.Hồ Chí Minh của Trần Văn C xác định tại các địa chỉ nêu trên không có người mang tên Lê Quốc B và Trần Văn C cư trú. Xác minh tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú trên giấy chứng minh nhân dân của Lê Quốc B và Trần Văn C thuộc xã H, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi xác định Lê Quốc B và Trần Văn C có hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng hiện nay B và C đều không có mặt ở địa phương, địa phương không biết các đối tượng trên hiện đi đâu, làm gì nên không triệu tập làm việc được. Ngày 4/8/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì đã ra thông báo truy tìm người đối với B và C.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì đã tra cứu thông tin đối với các số điện thoại 0586.200.522, 0964.022.977 và 0908.898.695 T khai đã trao đổi mua bán thuốc lá với T. Kết quả xác minh thể hiện:

+ Chủ thuê bao số điện thoại 0586.200.522 là Đạo Lương P – sinh năm 1995, số chứng minh nhân dân: 212791112 do Công an tỉnh Quảng Ngãi cấp, tuy nhiên trong hệ thống tàng thư căn cước công dân do Công an tỉnh Quảng Ngãi quản lý không có thông tin tài liệu về đối tượng nêu trên.

+ Chủ thuê bao số điện thoại 0964.022.977 là Lương Thị Kiều H – sinh năm 2000, trú tại: xã H, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, tuy nhiên Công an xã H, Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi xác định hiện H không có mặt tại địa phương, không xác định được nơi ở hiện nay của H.

+ Chủ thuê bao số điện thoại 0908.898.695 là Nguyễn Đăng T – sinh năm 1973, hộ khẩu thường trú tại xã L, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, tuy nhiên anh T không đăng ký và sử dụng số thuê bao trên.

Tại Cơ quan điều tra, Ngô Chí T khai nhận đã mua tổng số 4000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất, tuy nhiên quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì chỉ đủ căn cứ xử lý T về hành vi mua bán thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất với số lượng là 1543 bao, trong đó gồm có 1503 bao Cơ quan điều tra đã thu giữ ngày 05/4/2020 và 40 bao thuốc T đã bán cho chị Phạm Thị H ngày 25/02/2020. Số thuốc lá còn lại là 2437 bao T khai mua các ngày 22 và 26/2/2020, ngoài lời khai của T, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì chưa đủ căn cứ xác định loại hàng, người bán và người mua thuốc lá như T khai nên cơ quan điều tra tách ra để tiếp tục điều tra, làm rõ, khi nào có đủ căn cứ sẽ tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật.

Vật chứng, tài sản bị thu giữ:

- 150 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất để trong 03 thùng bìa cát tông màu vàng nâu.

- 03 bao thuốc lá nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất để trong 01 bao bì cây thuốc lá.

- 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA morning, màu sơn bạc biển kiểm soát 29A - 521.12, số khung: KNABA24437, số máy: G4HE7295131.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu đen đã cũ số Imei:

352994092987450, gắn sim số 0903781986.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng hồng đã cũ số Imei:

355690075119098 không gắn sim.

- 01 giấy chứng minh nhân dân số 131382383 do Công an tỉnh Phú Thọ cấp ngày 15/9/2012 mang tên Ngô Chí T.

- 01 đăng ký xe và 01 đăng kiểm xe ô tô 29A – 521.12 - 01 giấy phép lái xe hạng B2 mang tên Ngô Chí T.

- 01 thẻ ATM của Ngân hàng Techcombank mang tên Ngô Chí T.

- Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 1.200.000 đồng. Vật chứng, tài sản bị thu giữ:

Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu KIA morning BKS: 29A - 521.12 qua xác minh xác định là của anh Hà Trọng G- sinh năm 1982, trú tại khu 8, xã PH, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Anh Giai cho T mượn xe ngày 04/4/2020 làm phương tiện đi lại, anh G không biết việc T dùng xe chở thuốc lá ngày 05/04/2020. Cơ quan - Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Thọ đã trao trả chiếc xe ô tô trên cho anh Hà Trọng G là chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe hạng B2 và 01 thẻ ATM của Ngân hàng Techcombank đều mang tên Ngô Chí T do không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì trao trả cho Ngô Chí T là phù hợp.

Đối với hành vi mua bán 40 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất ngày 25/02/2020 của Phạm Thị H chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển Công an thành phố Việt Trì ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H về hành vi “Buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu” quy định tại điểm c, khoản 1, điều 25, Nghị định 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ là phù hợp. Ngày 18/8/2020, Phạm Thị Hường đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì số tiền 1.200.000 đồng là tiền H thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm trên.

Đối với Lê Quốc B và Trần Văn C, hiện không có mặt tại địa phương, nên ngày 04/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Việt Trì đã ra thông báo truy tìm người đối với Lê Quốc B và Trần Văn C. Khi xác định được nơi ở của B và C sẽ tiến hành làm việc, làm rõ các nội dung liên quan đến vụ án, nếu có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với Nguyễn Thị Cẩm Th và Nguyễn Phú Q là nhân viên của Tổng công ty chuyển phát nhanh bưu điện - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, khi tiếp nhận hàng hóa gửi đã không kiểm tra hàng hóa bên trong theo quy định, mà vẫn chấp nhận gửi, vi phạm Khoản 3, Điều 29 Luật bưu chính và Điều 21 Chương 7 Quy định, quy trình nghiệp vụ chuyển phát nhanh EMS năm 2020 của Tổng công ty chuyển phát nhanh bưu điện nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì có kiến nghị với Tổng công ty chuyển phát nhanh bưu điện - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh có hình thức xử lý phù hợp.

Đối với anh Phạm Văn C là người đi cùng T vào ngày 05/4/2020, Chín không biết việc T đi nhận thuốc lá nhằm mục đích bán kiếm lời nên Cơ quan điều tra – Công an thành phố Việt Trì không đề cập xử lý.

Về nguyên nhân, điều kiện, động cơ, mục đích dẫn đến hành vi phạm tội: Bị can thực hiện hành vi phạm tội vì mục đích vụ lợi.

Về điều kiện kinh tế của bị cáo: Bị can không có việc làm ổn định, không có tài sản gì tại địa phương.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Bản Cáo trạng số: 156/CT-VKS-VT ngày 08 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Ngô Chí T về tội “buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Ngô Chí T phạm tội “buôn bán hàng cấm” Áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51:

Điều 65; điểm a, b,c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự ; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị xử phạt bị cáo Ngô Chí T từ: 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 đến 48 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 130 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất để trong 03 thùng bìa cát tông màu vàng nâu và sim số 0903781986 gắn vào điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu đen đã cũ số Imei: 352994092987450.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu đen đã cũ số Imei: 352994092987450, 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng hồng đã cũ số Imei: 355690075119098 không gắn sim và 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng) Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai, bị cáo ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Việt Trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng đã được tống đạt cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đúng thời hạn do pháp luật quy định nên các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

Đánh giá các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Ngô Chí T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng.

Hồi 15 giờ 00 ngày 05/4/2020 tại khu 3, phường VP, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Ngô Chí T đã có hành vi tàng trữ 1503 bao thuốc lá mang nhãn hiệu “555” do nước ngoài sản xuất mục đích để bán kiếm lời.Toàn bộ số thuốc lá điếu các loại trên không có giấy tờ, hóa đơn chứng từ để chứng minh nguồn gốc xuất xứ hợp pháp của hàng hóa, không dán tem nhập khẩu bị tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu - Công an tỉnh Phú Thọ phát hiện và thu giữ vật chứng. Trước đó, T cũng đã bán cho chị Phạm Thị Hường, sinh năm 1982 ở tổ 3, phố V, phường B, thành phố Việt Trì, Tỉnh Phú Thọ 40 bao thuốc lá nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất không có tem nhập khẩu.

Hành vi buôn bán trái phép 1543 bao thuốc lá mà T đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách của nhà nước về quản lý các loại hàng hóa cấm kinh doanh do đó cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật, Vì vậy hành vi nêu trên của Ngô Chí T phạm tội buôn bán hàng cấm theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 190 của Bộ luật Hình sự

Tại Điều 190 Bộ luật Hình sự quy định:

“ 1.Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 244, 246, 248, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)….

b) Buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu từ 1.500 bao đến dưới 3.000 bao:

Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện nên bị cáo phải chịu hậu quả về hành vi phạm tội của mình.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng cho bị cáo: Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình cho nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo còn có bố đẻ là ông Ngô Văn B được tặng Huân chương chiến công hạng Nhì và nhiều huy chương các loại, cho nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội thuộc trường hợp nghiêm trọng, tuy nhiên bị cáo phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng và bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, 01 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 190 của Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.. Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp và tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo là phù hợp.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Thuốc lá điếu nhập lậu là hàng hóa nhà nước cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy: 130 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất để trong 03 thùng bìa cát tông màu vàng nâu.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu đen đã cũ số Imei: 352994092987450, 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng hồng đã cũ số Imei: 355690075119098 không gắn sim vì đây là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội.

- Đối với sim số 0903781986 của Ngô Chí T là vật không có giá trị nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với số tiền 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng) đây là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội cho nên cần tịch thu, sung ngân sách nhà nước.

- Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu KIA morning BKS: 29A - 521.12 qua xác minh xác định là của anh Hà Trọng G - sinh năm 1982, trú tại khu 8, xã PH, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Anh G cho T mượn xe ngày 04/4/2020 làm phương tiện đi lại, anh G không biết việc T dùng xe chở thuốc lá ngày 05/04/2020. Cơ quan - Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Thọ đã trao trả chiếc xe ô tô trên cho anh Hà Trọng G là chủ sở hữu hợp pháp, xét thấy phù hợp - Đối với 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe hạng B2 và 01 thẻ ATM của Ngân hàng Techcombank đều mang tên Ngô Chí T do không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì trao trả cho Ngô Chí T, xét thấy phù hợp.

[7] Về những vấn đề khác:

Đối với hành vi mua bán 40 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất ngày 25/02/2020 của Phạm Thị Hường chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển Công an thành phố Việt Trì ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H về hành vi “Buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu” quy định tại điểm c, khoản 1, điều 25, nghị định 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ là phù hợp.

Đối với Lê Quốc B và Trần Văn C, hiện không có mặt tại địa phương, nên ngày 04/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Việt Trì đã ra thông báo truy tìm người đối với Lê Quốc B và Trần Văn C. Khi xác định được nơi ở của B và C sẽ tiến hành làm việc, làm rõ các nội dung liên quan đến vụ án, nếu có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật, xét thấy phù hợp Đối với Nguyễn Thị Cẩm Th và Nguyễn Phú Q là nhân viên của Tổng công ty chuyển phát nhanh bưu điện - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, khi tiếp nhận hàng hóa gửi đã không kiểm tra hàng hóa bên trong theo quy định, mà vẫn chấp nhận gửi, vi phạm Khoản 3, Điều 29 Luật bưu chính và Điều 21 Chương 7 Quy định, quy trình nghiệp vụ chuyển phát nhanh EMS năm 2020 của Tổng công ty chuyển phát nhanh bưu điện nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì có kiến nghị với Tổng công ty chuyển phát nhanh bưu điện - chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh có hình thức xử lý phù hợp, xét thấy phù hợp Đối với anh Phạm Văn C là người đi cùng T vào ngày 05/4/2020, C không biết việc T đi nhận thuốc lá nhằm mục đích bán kiếm lời nên Cơ quan điều tra – Công an thành phố Việt Trì không đề cập xử lý, xét thấy phù hợp

[8] Về án phí: Bị cáo Ngô Chí T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và đúng theo quy định của pháp luật nên cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51:

Điều 65; điểm a, b,c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án 1.Tuyên bố bị cáo Ngô Chí T phạm tội “ Buôn bán hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Ngô Chí T: 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo Thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Ngô Chí T cho Ủy ban nhân dân phường Gia Cẩm, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với UBND phường Gia Cẩm trong việc giám sát, giáo dục người bị kết án.

Người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Ngô Chí T.

2. Về vật chứng vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy: 130 cây (mỗi cây có 10 bao, mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất để trong 03 thùng bìa cát tông màu vàng nâu.

- Tịch thu, tiêu hủy đối với sim số 0903781986 của Ngô Chí T - Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu đen đã cũ số Imei: 352994092987450, 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE màu trắng hồng đã cũ số Imei: 355690075119098 không gắn sim - Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng) ( Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/10/2020 và biên lai thu tiền ngày 09/10/2020) 3. Về án phí: Buộc bị cáo Ngô Chí T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ để đề nghị xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

337
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 165/2020/HSST ngày 16/11/2020 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:165/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;