Bản án 162/2021/HS-ST ngày 18/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ B - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 162/2021/HS-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 154/2021/TLST-HS, ngày 23 tháng 4 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 166/2021/QĐXXST – HS, ngày 04 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Cứ A C; Tên gọi khác: Không, sinh năm: 1975, Tại: xã M P, thành phố Đ B P, tỉnh Điện Biên; ĐKHKTT: Bản L L 2, xã M P, thành phố Đ B P, tỉnh Điện Biên; Cư trú tại:Bản L L 2, xã M P, thành phố Đ B P, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam;

Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông: Cứ A B, sinh năm 1940 ( Đã chết) và bà Vàng Thị S, sinh năm 1946; Bị cáo có vợ: Hù Thị D, sinh năm 1976 và 06 người con, con lớn nhất, sinh năm 1994, con nhỏ nhất, sinh năm 2018; Nhân thân: tại bản án số 54/2011/HSST, ngày 28/6/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt Cứ A C 8 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; tạm giữ từ ngày 25/01/2021; tạm giam từ ngày 28/01/2021 cho đến ngày xét xử; Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Hà Thị Thuận – Trợ giúp viên pháp lý Công tác: Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên; Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hù Thị D, sinh năm 1976 Cư trú: Bản L L 2, xã M P, thành phố Đ B P, tỉnh Điện Biên; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 00 phút, ngày 25/01/2021, Cứ A C một mình điều khiển xe mô tô BKS 27B1 – 758.80 đi từ nhà ở Bản L L 2, xã M P, thành phố Đ B P, tỉnh Điện Biên đến nhà của Ly A C1, cư trú bản N T 2, xã H T, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; là bạn từ thời ở trại giam Thanh Xuân, Hà Nội ( C chấp hành án về tội mua bán trái phép ma túy, còn C1 chấp hành án về tội Giết người) chơi; Khoảng 12 giờ, ngày 25/01/2021 thì đến nhà Ly A C1, lúc này C1 đang đứng trước cửa nhà; khi C vào trong nhà thì C1 mang 2 viên Hồng phiến ra để C và C1 sử dụng bằng hình thức hít. Sau khi sử dụng xong ma túy thì C1 mời C ăn cơm. Ăn cơm xong, C và C1 ngồi nói chuyện một lúc; rồi C chuẩn bị ra về thì C1 đưa cho C 01 gói nilon màu trắng bên trong có 16 viên Hồng phiến và nói cho về để hút. C cho gói ma túy vào trong túi quần bên trái đang mặc và chào C1 ra về. Khi về đến khu vực bản N T 2, xã H T, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên thì bị cán bộ Đồn Biên Phòng Mường Pồn phối hợp với Công an xã H T kiểm tra, phát hiện trong túi quần bên trái đang mặc của C 01 gói nilon màu trắng bên trong có 16 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine. Tổ công tác, Đồn Biên Phòng Mường Pồn phối hợp với Công an xã H T, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong có 16 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 26/01/2021 thì vật chứng thu giữ của Cứ A C gồm: 16 viên nén màu hồng có khối lượng: 1,52g, đồng thời lấy 0,3g làm mẫu gửi giám định; bản kết luận giám định số: 205/GĐ – PC09, ngày 04/02/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, kết luận:

1,52 gam là Methamphetamine.

Tại phiên tòa, Cứ A C thành khẩn, khai nhận: Khoảng 15 giờ 45 phút, ngày 25/ 01/2021, C đang tàng trữ trái phép: 1,52 gam Methamphetamine mang về nhà để sử dụng cho bản thân thì bị Tổ công tác, Đồn Biên Phòng Mường Pồn phối hợp với Công an xã H T, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên bắt quả tang như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Cáo trạng số 103/CT – VKS- ĐB, ngày 23/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B đã truy tố bị cáo Cứ A C về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy " theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Cứ A C phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Cứ A C từ 2 năm 3 tháng tù đến 2 năm 6 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu hủy: 1,22g Methamphetamine và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 113341, mang tên Cứ A C, cấp ngày 29/8/2018; tịch thu sung ngân sách Nhà nước ½ giá trị xe mô tô YAMAHA, loại EXCITER, BKS 27B1- 758.80 có số khung RLCUG0610JY668979, số máy G3D4E-696514, màu sơn đỏ - đen đã qua sử dụng; trả lại ½ giá trị xe cho bà Hù Thị D . Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo nhất trí với bản luận tội của Viện kiểm sát về tội danh và áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo; xong xét điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nhận thức về ma túy còn hạn chế, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo dưới mức đề nghị của Viện kiểm sát, không áp dụng hình phạt bổ sung; về xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát.

Bị cáo nhất trí với ý kiến của trợ giúp viên pháp lý và không có ý kiến gì bổ sung; Lời nói sau cùng, bị cáo C thừa nhận phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, trợ giúp viên pháp lý, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án: Qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa, bị cáo Cứ A C đã thừa nhận vào khoảng 15 giờ 45 phút, ngày 25/ 01/2021, C đang tàng trữ trái phép:1,52 gam Methamphetamine với mục đích mang về nhà để sử dụng cho bản thân thì bị Tổ công tác, Đồn Biên Phòng Mường Pồn phối hợp với Công an xã H T, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên bắt quả tang. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án; phù hợp với biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 26/01/2021 và kết luận giám định số: 205/GĐ – PC09, ngày 04/02/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: 1,52 gam Methamphetamine và biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 16 giờ 00 phút, ngày 25/01/2021 đối với Cứ A C. Do đó, Hành vi của Cứ A C tàng trữ trái phép: 1,52 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Cứ A C đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 Điều 249 BLHS quy định: Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

.....

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam".

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình gây ra cho xã hội.

[2] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo có mức cao nhất của khung hình phạt đến 5 năm tù, thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đã gây ra cho xã hội.

[3] Xét về hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã tiếp tay cho tội phạm mua bán trái phép chất ma túy và làm phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, nên cần phải được xử lý nghiêm nhằm dăn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và có bố là người có công với cách mạng được tặng thưởng huân C1ơng kháng chiến hạng nhì nên Hội đồng xét xử xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Nhân thân và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo không đi học ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình; do nhận thức có giới hạn về ma túy nên đã mắc vào tệ nạn nghiện ma túy, ngày 28/6/2011, bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt 8 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy đã được xóa án tích, xong bị cáo có nhân thân không tốt. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhưng cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để bị cáo sửa chữa tội lỗi của mình, nhằm sau này trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Ngoài hình phạt chính, qua xác minh thì bị cáo thực sự khó khăn không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[ 7] Về vật chứng: Hội đồng xét xử xét thấy: 1,52g Methamphetamine đã trích mẫu giám định là 0,3g không hoàn lại, còn lại 1,22g Methamphetamine thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc mô tô bị cáo đi thì vợ bị cáo là chị Hù Thị D không biết nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước ½ giá trị xe mô tô YAMAHA, loại EXCITER, BKS 27B1- 758.80 có số khung RLCUG0610JY668979, số máy G3D4E-696514, màu sơn đỏ - đen đã qua sử dụng; trả lại ½ giá trị xe cho chị Hù Thị D . 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 113341, mang tên Cứ A C, cấp ngày 29/8/2018 cần tịch thu tiêu hủy.

[ 8] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự nên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ 9] Về án phí: Bị cáo Cứ A C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[ 10] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B là có cơ sở pháp luật nên Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận.

[ 11] Đề nghị của Trợ giúp viên pháp lý là có cơ sở pháp luật nên Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận.

[ 12] Đối với Lý A C1 là người bị cáo Cứ A C khai đã cho bị cáo 16 viên Hồng phiến, qua điều tra xác minh thì C1 không có ở nhà nên Cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra, xử lý khi có đủ căn cứ. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Cứ A C phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Cứ A C 2 (hai) năm 3 ( ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25 tháng 01 năm 2021.

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu hủy: 1,22g Methamphetamine và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 113341, mang tên Cứ A C, cấp ngày 29/8/2018; Tịch thu sung ngân sách Nhà nước:½ giá trị xe mô tô YAMAHA, loại EXCITER, BKS 27B1- 758.80 có số khung RLCUG0610JY668979, số máy G3D4E-696514, màu sơn đỏ - đen đã qua sử dụng; trả lại ½ giá trị xe cho chị Hù Thị D.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 162/2021/HS-ST ngày 18/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:162/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;