TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A – TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 16/2021/HSST NGÀY 24/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24/3/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2021/HSST ngày 03/02/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-HS ngày 11/3/2021 đối với bị cáo:
Phạm Văn T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1995; HKTT và nơi cư trú: Thôn 1, xã L, huyện A, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông: Phạm Văn H và con bà Trần Thị H (Đã chết); Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2020 đến nay, hiện nay đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện A, tỉnh Nghệ An; Bị cáo có mặt tại phiên toà.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Công T – Sinh năm: 2001 – Trú tại: Thôn 3, xã P, huyện A, tỉnh Nghệ An – Vắng mặt
* Người làm chứng:
- Ông Đào Đăng Đ – Sinh năm: 1967 Trú tại: Thôn 2, xã P, huyện A, tỉnh Nghệ An – Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 00 giờ 30 phút, ngày 16/12/2020 tại sân vận động thuộc Thôn 3, xã P, huyện A, Công An xã P, huyện A, tỉnh Nghệ An đã bắt quả tang Phạm Văn T có hành vi tàng trữ một gói nilon, màu trong suốt bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, niêm phong tang vật và đưa đối tượng về Công A n xã P để làm rõ vụ việc thì Phạm Văn T khai nhận mua số ma túy trên của anh Nguyễn Công T, sinh năm 2001, trú ở thôn 3, xã P, huyện A, tỉnh Nghệ An với giá 1.000.000 đồng để sử dụng nhưng T chưa trả tiền mua ma túy cho T.
Tang vật thu giữ của Phạm Văn T gồm:
- 01 gói nilon màu trong suốt, bên trong có chứa chất kết tinh màu trắng (nghi là chất ma túy).
Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại, hội đồng mở niêm phong đã xác định số chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy) thu giữ của Phạm Văn T có tổng khối lượng 0,335 gam. Hội đồng đã lấy 0,09 gam chất tinh thể màu trắng trong tổng số 0,335 gam thu giữ của Phạm Văn T niêm phong lại ký hiệu M để trưng cầu giám định về chất ma túy tại Phòng kỹ thuật hình sự Công An tỉnh Nghệ An. Số chất tinh thể màu trắng còn lại có khối lượng 0, 245 gam được niêm phong lại theo quy định lưu giữ tại cơ quan CSĐT Công An huyện A.
Tại bản kết luận giám định số 1486 /KL-PC09(Đ2-MT) ngày 21/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công An tỉnh Nghệ An, kết luận: “Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm văn T gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Toàn bộ chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Văn T có tổng khối lượng là 0,335 gam”.
Trong quá trình điều tra, Phạm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là vào ngày 16/12/2020 T đã có hành vi tàng trữ 0,335 gam ma túy (Methamphetamine) để sử dụng.
Cáo trạng số 06/CT-VKS-AS ngày 01/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị:
Áp dụng: Điểm c, khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 18 - 21 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu huỷ 0,245 gam ma tuý (Methamphetamine) còn lại đã thu giữ của Phạm Văn T.
Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Tại phiên toà, bị cáo Phạm Văn T không tranh luận gì với quan điểm của Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng bị cáo nói: Hành vi của bị cáo là sai trái, vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều thực hiện đúng pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Văn T khai nhận về hành vi phạm tôi của mình như sau:
Vào khoảng 00 giờ 30 phút, ngày 16/12/2020, tại khu vực sân vận động thuộc thôn 3, xã P, huyện A, tỉnh Nghệ An bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,335 gam ma túy (Methamphetamine) nhằm mục đích để sử dụng thì bị Công an phát hiện và bắt giữ.
Tang vật thu giữ gồm:
- 01 gói nilon màu trong suốt, bên trong có chứa chất kết tinh màu trắng (nghi là chất ma túy).
Tại bản kết luận giám định số 1486 /KL-PC09(Đ2-MT) ngày 21/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công An tỉnh Nghệ An, kết luận: “Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Văn T gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Toàn bộ chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm văn T có tổng khối lượng là 0,335 gam”.
Căn cứ vào lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Phạm Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Nghệ An đã truy tố là đúng quy định pháp luật.
Tội phạm mà bị cáo gây ra là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất và mức độ nguy hiểm lớn cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý.
Bị cáo thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, động cơ và mục đích phạm tội là nhằm để sử dụng, mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời điểm bị cáo thực hiện phạm tội bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đã phạm.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo là gây tác hại đến sức khoẻ, làm băng hoại giá trị đạo đức cũng như lối sống của chính bản thân bị cáo. Đây cũng là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội trên địa bàn nên cần phải xử lý nghiêm nhằm đấu tranh riêng và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo thấy rằng: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Tuy nhiên, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết để bị cáo được cải tạo, giáo dục trong môi trường nghiêm khắc hơn.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét nghề nghiệp của bị cáo là lao động tự do, thu nhập khổng ổn định, bị cáo không có tài sản riêng gì. Mặt khác bị cáo tàng trữ trái phép chất ma tuý với mục đích là để sử dụng, không có mục đích thu lợi bất chính nên miễn hình phạt tiền cho bị cáo.
[5] Về hành vi liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo: Trong vụ án này Phạm Văn T khai, số ma túy mà T bị thu giữ là do T mua của anh Nguyễn Công T, sinh năm 2001, trú ở Thôn 3, xã P, huyện A, Tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, ngoài lời khai của bị cáo, không có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh việc bị cáo mua ma túy của anh Thiện nên không có căn cứ để xử lý anh Nguyễn Công T.
[6] Về xử lý vật chứng: Thu giữ của bị cáo 0,335 gam ma túy (Methamphetamine), đã sử dụng giám định hết 0,09 gam, số ma tuý còn lại là 0,245 gam là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1/ Tuyên bố : Phạm Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2/ Áp dụng : Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Phạm Văn T 1 (Một) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo là ngày 16/12/2020.
3/ Về hình phạt bổ sung : Miễn hình phạt tiền cho bị cáo Phạm Văn T.
4/ Về xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 0,245 gam ma túy (Methamphetamine) (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/02/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A và Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, tỉnh Nghệ An).
5/ Về án phí : Áp dụng điều 23 Nghị quyết 326/2017/QH14 ngày 30/12/2016.
Buộc bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
6/ Về quyền kháng cáo : Bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 16/2021/HSST ngày 24/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 16/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Anh Sơn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về