TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 16/2021/HSST NGÀY 20/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:15 /2021/TLST-HS ngày 19 tháng 04 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 05 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: TRIỆU VĂN Q (tên gọi khác không) sinh ngày 29 tháng 03 năm 1995 tại huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Nơi ĐKHKTT, chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã Y, huyện C, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 11/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Triệu Văn B và con bà Giá Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không. Nhân thân: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 19/12/2020 đến ngày 25/12/2020 thì được hủy bỏ, hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Giá Thị T – sinh năm 1974.
Địa chỉ: Thôn N, xã Y, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 13 giờ 30 phút ngày 19/12/2020, tại Thôn C, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Chợ Đồn đang làm nhiệm vụ đã phát hiện và bắt quả tang bị cáo Triệu Văn Q đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm 01(một) vỏ bao thuốc lá HÀ NỘI màu vàng do bị cáo Triệu Văn Q tự nguyện xuất trình từ trong túi áo khoác ngoài bên trái của bị cáo Q đang mặc, bên trong có 01 (một) vỏ kẹo màu xanh có chữ DOUBLEMINT mở ra bên trong có 01 (một) gói giấy một mặt màu vàng, một mặt màu trắng bên trong có chứa cục và bột màu trắng và 01 (một) gói giấy có nhiều màu sắc bên trong có chứa cục và bột màu trắng. Tiến hành trích mẫu cục và bột màu trắng ở 02 (một) gói cho vào thuốc thử phát hiện nhanh các chất ma túy, kết quả thuốc thử phản ứng dương tính với ma túy loại Heroine (Được niêm phong vào phong bì ký hiệu Q1) và 01 (một) xe mô tô màu xanh, trên vỏ xe có dòng chữ nhãn hiệu Wave alpha biển kiểm soát 97F3-2490 đã qua sử dụng.
Hồi 16 giờ 52 phút ngày 19/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Bắc Kạn tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở, công trình phụ cận đối với bị cáo Triệu Văn Q ở thôn N, xã Y, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Qua khám xét không phát hiện và thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến ma túy.
Tại biên bản mở niêm phong và cân xác định khối lượng hồi 15 giờ 30 phút ngày 19/12/2020 xác định: Bên trong phong bì niêm phong ký hiệu Q1 có 01 vỏ bao thuốc lá HÀ NỘI màu vàng chứa 01 (một) vỏ kẹo màu xanh có chữ DOUBLEMINT mở ra bên trong có 01 (một) gói giấy một mặt màu vàng, một mặt màu trắng bên trong có chứa cục và bột màu trắng và 01 (một) gói giấy có nhiều màu sắc bên trong có chứa cục và bột màu trắng, cân riêng cục và bột màu trắng có trong 02 (hai) gói có khối lượng là 0,25g (Không phẩy hai năm gam) niêm phong trong 01(một) phong bì mới gửi Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn giám định ký hiệu Q2.
Tại Kết luận giám định số: 18/KTHS- MT ngày 01/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất dạng cục và bột màu trắng trong phong bì ký hiệu Q2 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,25g (Không phẩy hai năm gam).
Sau giám định, mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu Q2 gửi giám định còn lại: 0,21g (Không phẩy hai một gam) cùng phong bì, bao gói cũ niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T18 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn hoàn trả lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C.
Quá trình điều tra, truy tố bị cáo Q khai nhận: Toàn bộ số ma túy Heroine mà Cơ quan Công an thu giữ khi bắt quả tang là do bị cáo Q mua về để sử dụng cá nhân, cụ thể: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 19/12/2020, bị cáo Q điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 97F3-2490 mượn của mẹ đẻ mình là bà Giá Thị T từ nhà ra Trung tâm y tế huyện C để uống thuốc cai nghiện Methadone. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, sau khi uống thuốc xong thì bị cáo Q điều khiển xe đi xuống khu vực bến xe khách cũ thuộc Tổ A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi lên đến nơi bị cáo Q gặp và mua 01 (một) gói ma túy với số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) với một người đàn ông khoảng 40 tuổi (Không rõ họ tên, địa chỉ). Sau khi mua được ma túy bị cáo Q điều khiển xe đi lên khu vực nghĩa địa thuộc Tổ B, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn rồi chia gói ma túy mua được thành 02 (hai) gói nhỏ khác nhau và sử dụng bằng hình thức đốt, hít 01 (một) phần ma túy trong 01(một) gói ma túy. Sau khi sử dụng ma túy xong, bị cáo Q gói 02 (hai) gói ma túy vào 01 (một) vỏ kẹo màu xanh có chữ DOUBLEMINT rồi cho vào 01 (một) vỏ bao thuốc lá HÀ NỘI màu vàng và cất dấu trong túi áo khoác ngoài bên trái của bị cáo Q đang mặc. Sau đó bị cáo Q tiếp tục điều khiển xe đi về nhà. Khi đi đến khu vực đường đèo B thuộc thôn C, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn thì bị Cơ quan Công an phát hiện và bắt quả tang thu giữ 02 (hai) gói ma túy trên.
Tại bản cáo trạng số: 15/CT- VKSCĐ ngày 19 tháng 04 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Triệu Văn Q về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a)……………………….
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm cáo trạng đã truy tố.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo Triệu Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Triệu Văn Q từ 12 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án và trừ đi ngày bị cáo bị bắt tạm giữ.
Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 46 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị:
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) phong bì đã được niêm phong dán kín ký hiệu T18 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn (bên trong phong bì có chứa 0.21g (không phẩy hai một gam) cục và bột màu trắng là ma túy loại Heroine cùng phong bì và bao gõi cũ niêm phong ban đầu ký hiệu Q2).
+ 01 (một) phong bì đã được niêm phong dán kín ký hiệu Q3 (bên trong chứa 01 (một) phong bì ký hiệu Q1, 01 (một) vỏ bao thuốc lá HÀ NỘI màu vàng bên trong có 01 (một) vỏ kẹo màu xanh có chữ DOUBLEMINT và giấy gói ban đầu).
- Trả lại cho chủ sở hữu là bà Giá Thị T 01 (một) xe mô tô màu xanh, trên vỏ xe có dòng chữ WAVE α biển kiểm soát 97F3-2490, xe đã qua sử dụng, có số khung VDMPCG0012M021509, số máy DGE1001032009.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Đồn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 19/12/2020, tại khu vực bến xe khách cũ thuộc Tổ A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, bị cáo Triệu Văn Q đã có hành vi mua trái phép 01 (một) gói ma túy Heroine với 01 (một) người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ để sử dụng cá nhân. Sau khi mua được ma túy bị cáo Q đã chia gói ma túy mua được thành 02 (hai) gói nhỏ và sử dụng 01 (một) phần số ma túy mua được, số ma túy còn lại 0,25g (không phẩy hai năm gam) bị cáo Q gói lại và cất dấu trên người để mang về nhà sử dụng tiếp. Đến 13 giờ 30 phút cùng ngày khi bị cáo Q đi đến khu vực thôn C, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C phát hiện, bắt quả tang thu toàn bộ số ma túy.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với kết luận giám định là chất ma tuý (Heroine) và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ của vụ án. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vì bị cáo nghiện chất ma túy để thoả mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn thực hiện. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định việc truy tố, xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Xét tính chất, hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự ở địa phương. Cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Hội đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ của hành vi, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với bị cáo và đúng quy định của pháp luật.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng 01 (một) tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, ngoài ra bị cáo có ông nội là Triệu Văn T được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất do vậy bị cáo được hưởng 01 (một) tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, sống chủ yếu dựa vào gia đình. Do đó Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Đối với người đàn ông khoảng 40 tuổi (không rõ họ tên, địa chỉ) là người đã bán ma túy Heroine cho bị cáo Q tại khu vực bến xe khách cũ thuộc Tổ 12, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Kết thúc điều tra bị cáo không cung cấp được danh tính, địa chỉ cụ thể nên không đủ căn cứ để điều tra, xử lý.
Đối với bà Giá Thị T là người đã có hành vi cho bị cáo Q mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 97F3 - 2490 vào ngày 19/12/2020. Tuy nhiên quá trình điều tra xác định bà T không biết việc bị cáo Triệu Văn Q mượn và sử dụng xe vào việc đi mua ma túy để sử dụng cá nhân. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Đồn không xem xét xử lý là phù hợp.
[3]. Xét về vật chứng:
- Đối với 01 (một) xe mô tô màu xanh, trên vỏ xe có dòng chữ WAVE α biển kiểm soát 97F3-2490, xe đã qua sử dụng, có số khung VDMPCG0012M021509, số máy DGE1001032009 – xác định là tài sản quản lý hợp pháp của bà Giá Thị T, cần trả lại cho bà T.
- 01 (một) phong bì đã được niêm phong dán kín ký hiệu T18 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn (bên trong phong bì có chứa 0,21g (không phẩy hai một gam) cục và bột màu trắng là ma túy loại Heroine cùng phong bì và bao gõi cũ niêm phong ban đầu ký hiệu Q2); 01 (một) phong bì đã được niêm phong dán kín ký hiệu Q3 (bên trong chứa 01 (một) phong bì ký hiệu Q1, 01 (một) vỏ bao thuốc lá HÀ NỘI màu vàng bên trong có 01 (một) vỏ kẹo màu xanh có chữ DOUBLEMINT và giấy gói ban đầu) - xác định là vật không có giá trị sử dụng và vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.
[4]. Xét về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[5]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng điều luật, tình tiết giảm nhẹ, mức hình phạt chính và xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp với pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Triệu Văn Q phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"
[1]. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Triệu Văn Q 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án (bị cáo được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2020 đến ngày 25/12/2020).
Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không phạt tiền đối với bị cáo.
[2]. Về vật chứng: Áp dụng Điều 46 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Giá Thị T 01 (một) xe mô tô màu xanh, trên vỏ xe có dòng chữ WAVE α biển kiểm soát 97F3-2490, xe đã qua sử dụng, có số khung VDMPCG0012M021509, số máy DGE1001032009.
- Tịch thu tiêu hủy tất cả các vật chứng còn lại, bao gồm: 01 (một) phong bì đã được niêm phong dán kín ký hiệu T18 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn (bên trong phong bì có chứa 0,21g (không phẩy hai một gam) cục và bột màu trắng là ma túy loại Heroine cùng phong bì và bao gõi cũ niêm phong ban đầu ký hiệu Q2); 01 (một) phong bì đã được niêm phong dán kín ký hiệu Q3 (bên trong chứa 01 (một) phong bì ký hiệu Q1, 01 (một) vỏ bao thuốc lá HÀ NỘI màu vàng bên trong có 01 (một) vỏ kẹo màu xanh có chữ DOUBLEMINT và giấy gói ban đầu).
(Số lượng, tình trạng và ký hiệu vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Chợ Đồn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn).
[3]. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Điều 136/BLTTHS; quy định về trách nhiệm chi trả chi phí tố tụng, lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000,đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả T thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 16/2021/HSST ngày 20/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 16/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Đồn - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về