Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hà Đông, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 649/2020/TLST - HNGĐ ngày 6 tháng 10 năm 2020 về việc Ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2020/QĐST –HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị N, sinh năm 1977. Có mặt ĐKHK: Tổ dân phố …, phường V, quận H, TP.H. Trú tại: Căn …., K…., The K, phường V, quận H, H

Bị đơn: Anh Nguyễn Thái H, sinh năm 1973. Vắng mặt ĐKHK: Tổ dân phố …., phường V, quận H, H.

Chỗ ở: Số …, ngõ …., tổ …. V, Phường V, quận H, TP. H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 7/5/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị N trình bày: Tôi và anh Nguyễn Thái H tự nguyện kết hôn năm 1999, đăng ký kết hôn tại UBND phường V, thị xã H, tỉnh H cũ nay là phường V, quận H, TP. H. Sau khi kết hôn vợ chồng tôi ở cùng mẹ tôi tại tổ …, V, H, H, đến năm 2009 thì mẹ tôi cho đất nên làm nhà và chuyển về ở số … ngõ ….., tổ … V, Phường V, H. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, đến năm 2011 vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H đòi bán nhà, tôi không đồng ý nên vợ chồng mâu thuẫn; ngoài ra vợ chồng còn bất hòa trong sinh hoạt hàng ngày, nhiều lần anh H có những lời lẽ xúc phạm C:\Users\Administrator\Desktop\HNGD Nụ - Học. kiểm.doc tôi, có lần anh H còn đánh tôi, đập phá đồ đạc trong nhà, không những thế anh H lại ghen tuông thái quá nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Từ năm 2011 vợ chồng tuy sống chung nhà nhưng đã sống ly thân, đến năm 2018 thì vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng nên tôi và hai con chuyển ra ngoài ở chỗ khác từ đó đến nay. Thời gian vợ chồng sống ly thân anh H nhiều lần nhắn tin, gọi điện chửi bới xúc phạm tôi, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc nhau nữa, mỗi người sống một nơi, kinh tế độc lập, không ăn chung ở chung. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn gì nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn anh H.

Về con chung: Vợ chồng tôi có hai con chung:

1. Nguyễn Đức A, sinh ngày 10/10/1999 2. Nguyễn Đức T, sinh ngày 15/6/2004 Các cháu đều khỏe mạnh, phát triển bình thường. Từ khi vợ chồng tôi ly thân tôi nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai cháu nhưng mấy tháng nay thì cháu Đức A đã về ở cùng bố. Ly hôn tôi có ý kiến như sau: cháu Đức A đã đủ tuổi trưởng thành nên cháu muốn ở với ai thì ở, tôi không có ý kiến gì, riêng cháu T vẫn còn đang đi học nên ly hôn tôi xin được nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T; tôi không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con hàng tháng.

Hiện tôi đang công tác tại công ty TNHH dịch vụ ….., thu nhập mỗi tháng được 7.000.000 đồng/tháng. Tôi cam đoan có đủ khả năng để chăm sóc cho cháu Về tài sản chung: Tôi không yêu cầu Tòa giải quyết Về công nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phía bị đơn anh Nguyễn Thái H đã được Tòa án nhân dân quận Hà Đông tiến hành triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến tòa làm việc cũng không thể hiện quan điểm của mình về quan hệ hôn nhân và về việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung; tài sản chung, công nợ chung.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân quận Hà Đông đã ra quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ và tống đạt hợp lệ cho anh H, chị N, tuy nhiên chỉ có chị N nộp các tài liệu chứng minh về thu nhập, nơi ở; còn anh H không nộp bất kỳ tài liệu gì.

Ngày 19/11/2020 Tòa án nhân dân quận Hà Đông đã tiến hành xác minh về tình trạng quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị N và anh Nguyễn Thái H. Tại biên bản xác minh ngày 19/11/2020, đại diện tổ dân phố …., phường V, H cung cấp: Chị N, anh H sống với nhau tại địa chỉ số …., ngõ …., tổ …., phường V, H từ năm 2009. Quá trình chung sống tại đây, chị N, anh H thường xuyên mâu thuẫn nhưng chúng tôi không biết rõ nguyên nhân; chỉ thấy anh H, chị N thường xuyên cãi vã; đến nay chị N không còn sinh sống tại đây nữa, chỉ còn anh H và con trai lớn sinh sống tại nhà đất trên.

Tại phiên tòa, Chị N vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn anh H và xin được nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Nguyễn Đức T; chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con hàng tháng; về tài sản chung, công nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông phát biểu ý kiến: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán thực hiện đúng quy định của pháp luật, tại phiên tòa Hội đồng xét xử tuân thủ pháp luật, nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh giấy triệu tập của Tòa còn bị đơn không đến Tòa làm việc, không đến tham dự phiên tòa là chưa tuân thủ pháp luật, chưa thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; Về nội dung: cuộc sống hôn nhân của chị N, anh H có xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng đã ly thân, xét tình trạng hôn nhân không thể hàn gắn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị N, giải quyết cho chị N được ly hôn anh H; về con chung đề nghị giao con chung là Nguyễn Đức T, sinh ngày 15/6/2004 cho chị N nuôi dưỡng, chăm sóc; ghi nhận sự tự nguyện của chị N chưa yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con hàng tháng; tài sản chung; công nợ chung: không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Thái H có đăng ký hộ khẩu tại Tổ dân phố …, phường V, quận H, H và trú tại: Số …, ngõ …., tổ … V, Phường V, quận Hà Đông, Hà Nội nên căn cứ Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận Hà Đông giải quyết.

Do bị đơn là anh Nguyễn Thái H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt.

2} Nội dung: Chị Vũ Thị N và anh Nguyễn Thái H tự nguyện kết hôn ngày 23/7/1999, đăng ký kết hôn tại UBND phường V, thị xã H, tỉnh H cũ nay là phường V, quận H, TP. H nên xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị N trình bày: sau khi kết hôn vợ chồng tôi ở cùng mẹ tôi tại tổ .., V, H, H; quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu, đến năm 2011 vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H đòi bán nhà, chị không đồng ý nên vợ chồng mâu thuẫn. Chị N xin ly hôn vì anh H có những lời lẽ xúc phạm chị, có lần anh H còn đánh đập chị, đập phá đồ đạc trong nhà; vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Từ năm 2011 vợ chồng tuy sống chung nhà nhưng sống ly thân, đến năm 2018 thì vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng nên chị và hai con chuyển ra ngoài ở chỗ khác từ đó đến nay.Thời gian vợ chồng ly thân, anh H nhiều lần nhắn tin, gọi điện chửi bới xúc phạm chị, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc nhau nữa, mỗi người sống một nơi, kinh tế độc lập, không ăn chung ở chung. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn gì nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H; còn anh H không lên Tòa án làm việc. Tòa án nhân dân quận Hà Đông cũng đã tiến hành xác minh, xác định: Quá trình chung sống tại Số …, ngõ …, tổ … V, Phường V, quận H, H, chị N, anh H thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã; đến nay chị N không còn sinh sống tại đây nữa, chỉ còn anh H và con trai lớn sinh sống tại nhà đất trên. Xét tình trạng quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị N và anh Nguyễn Thái H, Hội đồng xét xử thấy: tình trạng quan hệ hôn nhân giữa chị N, anh H đã trầm trọng; vợ chồng đã sống ly thân từ nhiều năm nay, không ai quan tâm, chăm sóc ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận xử cho chị Vũ Thị N được ly hôn anh Nguyễn Thái H.

Về con chung: Vợ chồng chị Vũ Thị N, anh Nguyễn Thái H có 2 con chung là Nguyễn Đức A, sinh ngày 10/10/1999 và Nguyễn Đức T, sinh ngày 15/6/2004. Hiện cháu Đức A đang ở với anh H, còn cháu T đang ở với chị N.

Ly hôn chị N xin được nuôi dưỡng chăm sóc cháu Nguyễn Đức T, còn cháu Đức A đã đủ tuổi trưởng thành, cháu muốn ở với ai thì ở, chị không có ý kiến gì; còn anh H không có ý kiến gì về việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Xét yêu cầu nuôi dưỡng chăm sóc con chung của chị N, Hội đồng xét xử thấy: cháu Nguyễn Đức A đã đủ tuổi trưởng thành nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết; đối với cháu Nguyễn Đức T chưa đủ tuổi trưởng thành nên cần giao cho bố hoặc mẹ nuôi dưỡng chăm sóc trong trương hợp anh chị ly hôn. Đối với yêu cầu xin nuôi con chung là Nguyễn Đức T của chị N, Hội đồng xét xử xét thấy: yêu cầu nuôi dưỡng, chăm sóc con chung của chị N là chính đáng, quá trình giải quyết vụ án chị N có nộp các tài liệu chứng minh về thu nhập hàng tháng, điều kiện về nơi ở nếu được nuôi con, còn anh H không giao nộp tài liệu gì; cháu Nguyễn Đức T cũng có bản trình bày nguyện vọng xin được ở với mẹ trường hợp bố mẹ ly hôn; mặt khác từ thời điểm chị N, anh H ly thân, cháu T ở với Chị N. Vì vậy để ổn định cuộc sống sinh hoạt, học tập của cháu T cũng như đảm bảo việc không làm ảnh hưởng, xáo trộn đến cuộc sống, sinh hoạt, tâm sinh lý của cháu sau này cần giao chị Vũ Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là Nguyễn Đức T, sinh ngày 15/6/2004 là phù hợp.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Chị N trình bày nếu được nuôi con, chị không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con hàng tháng. Xét việc chị N không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là tự nguyện, không trái pháp luật nên ghi nhận sự tự nguyện của chị N cho đến khi các bên có sự thỏa thuận, thay đổi khác.

Anh H được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Về tài sản chung, công nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị N không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết phần chia tài sản chung, công nợ chung; anh H cũng không có ý kiến, yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về tài sản chung, công nợ chung.

Về án phí: Chị N phải nộp tiền án phí ly hoon sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ Điều 147; 271; 273 Bộ luật tố tụng Dân sự;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

Chị Vũ Thị N được ly hôn anh Nguyễn Thái H Về con chung: Cháu Nguyễn Đức A, sinh ngày 10/10/1999 đã đủ tuổi trưởng thành nên không xem xét giải quyết.

Giao chị Vũ Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là Nguyễn Đức T, sinh ngày 15/6/2004.

Ghi nhận sự tự nguyện của chị N chưa yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con hàng tháng cho đến khi các bên có sự thỏa thuận, thay đổi khác.

Anh H có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không yêu cầu Tòa giải quyết nên Tòa không xem xét giải quyết.

Về án phí ly hôn: Chị N phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai nộp tiền số 0009541 ngày 6/10/2020 tại chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông) Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;