Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 16/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 58/2019/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Tô Hằng N, sinh năm 1990 (có mặt).

Địa chỉ: ấp V, xã ATN, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng;

- Bị đơn: Anh Nguyễn Vũ L, sinh năm 1985 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

 Địa chỉ: ấp V, xã ATN, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo đơn khởi kiện ngày 29/3/2019, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Tô Hằng N trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Vũ L được hai bên gia đình tổ chức đám cưới vào đầu năm 2011. Đến ngày 22/11/2011, chị và anh L đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã ATN, huyện CLD. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng ý kiến trong cuộc sống, nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc và kể từ tháng 12/2017 thì chị và anh L sống ly thân cho đến nay.

Về con chung: Trong thời gian chung sống chị và anh L có 01 người con chung tên: Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 08/8/2011. Hiện cháu K đang sống chung với anh L.

- Về tài sản chung và nợ chung: Trong thời gian chung sống, chị và anh L không có tài sản chung và nợ chung.

Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: Chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Vũ L.

- Về con chung: Chị N đồng ý giao con chung tên: Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 08/8/2011 cho anh Nguyễn Vũ L nuôi dưỡng đến khi thành niên và chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 05/6/2019 và tại đơn xin hòa giải và xét xử vắng mặt ngày 04/7/2019, bị đơn anh Nguyễn Vũ L trình bày:

Về mối quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung: Anh thống nhất với lời trình bày của chị Tô Hằng N. Về hôn nhân, anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị N; Về con chung, anh yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 08/8/2011 cho đến khi thành niên, không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung, không có, nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CLD phát biểu ý kiến tại phiên tòa: Qua thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, chứng cứ được thu thập đầy đủ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Đối với bị đơn anh Nguyễn Vũ L có đơn xin xét xử vắng mặt, do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo quy định của pháp luật.

Về nội dung giải quyết vụ án: Qua xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa cho thấy: Tình trạng hôn nhân giữa chị Tô Hằng N với anh Nguyễn Vũ L đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, các bên đương sự hiện không ai quan tâm chăm sóc lẫn nhau, chị N và anh L đã sống ly thân từ tháng 12/2017 cho đến nay. Mặt khác, tại biên bản lấy lời khai cũng như đơn xin hòa giải và xét xử vắng mặt, bị đơn anh L cũng đồng ý ly hôn với chị N, do đó đề nghị Hội đồng xét xử cho chị N được ly hôn với anh L.

Về con chung: Đối với cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 08/8/2011, từ khi chị N và anh L sống ly thân đến nay thì anh L là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K, nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu K cho anh L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi thành niên là phù hợp với nguyện vọng của cháu K. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho chị N, không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh L không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi cháu K nên không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự trình bày là không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn có địa chỉ tại ấp V, xã ATN, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện CLD thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” là đúng với quy định của pháp luật.

[3] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Vũ L giao nộp cho Tòa án đơn xin hòa giải và xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo quy định của pháp luật.

[4] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Tô Hằng N đối với anh Nguyễn Vũ L, Hội đồng xét xử xét thấy: Về quan hệ hôn nhân của chị N và anh L không vi phạm các điều kiện kết hôn và sau khi sống chung hai người có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ATN, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy, mối quan hệ hôn nhân giữa chị N với anh L phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, thiếu quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, tại phiên tòa chị N vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu xin được ly hôn với anh L. Mặt khác, giữa chị N với anh L đã sống ly thân từ tháng 12/2017 cho đến nay. Ngoài ra, tại biên bản lấy lời khai ngày 05/6/2019, tại đơn xin hòa giải và xét xử vắng mặt ngày 04/7/2019, bị đơn anh L cũng đồng ý ly hôn với chị N. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho chị N được ly hôn với anh L.

[5] Về con chung: Đối với cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 08/8/2011, từ khi chị N và anh L sống ly thân cho đến nay, anh L là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K. Tại biên bản lấy lời khai cháu Nguyễn Tuấn K ngày 05/6/2019, cháu K trình bày: Cháu có nguyện vọng sống chung với cha (anh L) nếu cha mẹ cháu ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu K cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng đến khi thành niên là phù hợp với nguyện vọng của cháu K và phù hợp với quy định của pháp luật. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho chị N, không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh L không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi cháu K, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự trình bày là không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Lời đề nghị của Vị Kiểm sát viên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Chị Tô Hằng N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 5, khoản 1 Điều 28, Điểm a khoản 1 Điều 35, Điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 143, Điều 144, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Tô Hằng N được ly hôn với anh Nguyễn Vũ L.

2. Về con chung tên: Anh Nguyễn Vũ L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên: Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 08/8/2011 đến khi thành niên. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho chị N, không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh L không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi cháu K nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về án phí: Chị Tô Hằng N phải chịu là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006065, ngày 29 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị N đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Anh Nguyễn Vũ L không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được Nêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:16/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;