TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIÊN KHÁNH, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 16/2017/DS-ST NGÀY 25/09/2017 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÀI SẢN CHO MƯỢN
Ngày 25 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 11/2017/TLST- DS ngày 06 tháng 02 năm 2017 về việc “Đòi lại tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2017/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thùy H
Cư trú tại: Thôn T, xã D, huyện D.K, Khánh Hòa (Chỗ ở cũ: Thôn P, xã D, huyện D.K, Khánh Hòa); có mặt.
- Bị đơn: Ông Trần Văn T
Cư trú tại: Thôn P, xã D, huyện D.K, Khánh Hòa; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Trong đơn khởi kiện đề ngày 02/12/2016, các lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Trần Thị Thùy H trình bày:
Chị Trần Thị Thùy H là chủ sở hữu xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Air Blade, biển kiểm soát 79D1-343.85 theo nội dung phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đề ngày 19/4/2017 của Công an huyện Diên Khánh.
Tháng 6/2016, chị H đi học tại Hà Nội nên chị đã giao xe, giấy tờ xe nêu trên cho ông T quản lý, sử dụng cho đến khi chị H học về. Đầu tháng 01/2017, chị H học về và yêu cầu ông T trả lại xe để chị có phương tiện đi lại nhưng ông T không trả.
Quá trình giải quyết vụ án, được biết ông T đã tự ý bán chiếc xe này cho một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) với giá 28.000.000 đồng để tiêu xài cá nhân. Hiện nay, ông T không còn giữ xe và giấy chứng nhận đăng ký xe nêu trên; đồng thời chiếc xe này hiện nay ở đâu, ai đang giữ thì cũng không rõ. Do đó, tại phiên hòa giải và phiên tòa sơ thẩm, chị H yêu cầu ông T phải bồi thường thiệt hại chiếc xe nêu trên theo giá thị trường số tiền là 32.637.500 đồng; ngoài ra, không có yêu cầu gì khác.
- Bị đơn ông Trần Văn T trình bày:
Ông T thừa nhận chị Trần Thị Thùy H là chủ xe mô tô hiệu Honda, loại Air Blade, biển số 79D1-343.85. Tháng 6/2016, chị H có giao xe, giấy tờ xe nêu trên cho ông T sử dụng trong thời gian chị H đi học tại Hà Nội. Tuy nhiên, do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nên tháng 12/2016, ông T đã tự ý bán xe này cho một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) với giá 28.000.000 để tiêu dùng cá nhân. Nay ông không còn giữ xe, giấy chứng nhận đăng ký xe nêu trên và cũng không biết xe này hiện ở đâu, ai đang quản lý, sử dụng xe này. Tại phiên hòa giải, ông T đồng ý bồi thường thiệt hại chiếc xe này cho chị H số tiền là 32.637.500 đồng, nhưng xin trả dần 1.000.000đ/tháng cho đến khi trả hết số tiền này.
Tại phiên tòa, ông T vẫn xác định chiếc xe nêu trên có trị giá 32.637.500 đồng, nhưng ông xin chỉ bồi thường 15.000.000 đồng và trả dần 1.000.000đ/tháng vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
- Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng; những người tham gia tố tụng đã thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định pháp luật.
Về nội dung: Sau khi xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến, tranh luận của các đương sự tại phiên tòa và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về án phí: Bị đơn ông Trần Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm cho nguyên đơn chị Trần Thị Thùy H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về quan hệ tranh chấp: Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn chị H yêu cầu bị đơn ông T trả lại tài sản đã mượn là chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Air Blade, biển kiểm soát 79D1-343.85. Tuy nhiên, do ông T đã bán xe mô tô nêu trên cho người khác và các đương sự đều không biết xe mô tô này hiện ở đâu, ai đang quản lý, sử dụng nên ông T không thể trả lại chiếc xe này cho chị H. Tại phiên hòa giải, nguyên đơn thay đổi yêu cầu buộc bị đơn bồi thường thiệt hại đối với chiếc xe nêu trên và yêu cầu này được giữ nguyên tại phiên tòa sơ thẩm. Do đó, Tòa án xác định lại quan hệ tranh chấp vụ án là bồi thường thiệt hại tài sản cho mượn.
[2]. Về nội dung tranh chấp: Theo kết quả xác minh tại Công an huyện Diên Khánh ngày 15/5/2017 thì chị Trần Thị Thùy H là chủ sở hữu xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Air Blade, biển kiểm soát 79D1-343.85 đã được Công an huyện Diên Khánh cấp giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô ngày 05/9/2015. Việc ông T tự ý bán xe mô tô nêu trên là vi phạm nội dung thỏa thuận của các bên và đã gây thiệt hại về tài sản cho chị H, nên ông T có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, các đương sự đều thống nhất chiếc xe mô tô này có trị giá là 32.637.500 đồng. Xét đây là sự tự nguyện của đương sự và không trái pháp luật nên Tòa án ghi nhận. Ông T nêu lý do vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên chỉ bồi thường thiệt hại số tiền 15.000.000 đồng và xin trả dần 1.000.000đ/tháng nhưng chị H không đồng ý. Do đó, Hội đồng xét xử buộc ông T bồi thường thiệt hại tài sản cho chị H số tiền 32.637.500 đồng là phù hợp.
[3]. Về án phí: Bị đơn ông T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 1.631.000 đồng (32.637.500đ x 5%). Hoàn lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm cho chị Hương.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 147, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào Điều 496 và Điều 499 của Bộ luật Dân sự; Căn cứ vào Điều 26, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn ông Trần Văn T bồi thường thiệt hại tài sản cho chị Trần Thị Thùy H 32.637.500đ (Ba mươi hai triệu sáu trăm ba mươi bảy nghìn năm trăm đồng).
2. Án phí :
- Ông Trần Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.631.000đ (Một triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn đồng).
- Hoàn lại cho chị Trần Thị Thùy H 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2012/0008229 ngày 06/02/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
3. Quy định: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Thùy H, ông Trần Văn T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 16/2017/DS-ST ngày 25/09/2017 về tranh chấp bồi thường thiệt hại tài sản cho mượn
Số hiệu: | 16/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về