Bản án 158/2020/HS-ST ngày 15/05/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 158/2020/HS-ST NGÀY 15/05/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 15 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 66/2020/HSST ngày 12 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2020/QĐXXST-HS ngày 11/3/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2020/HSST-QĐ ngày 24/3/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 98/2020/HSST-QĐ ngày 21/4/2020 đối với bị cáo:

Trần Thành H (tên gọi khác: Cu tí), sinh ngày 23/12/2000 tại tỉnh Tây Ninh; thường trú: Ấp T, xã L huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Trần Văn T, sinh năm 1947 và con bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1963; bị cáo có 02 anh em, bị cáo là thứ 1; tiền tiền án: Không có.

Tiền sự: Ngày 27/02/2019, Tòa án nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 12 tháng, theo quyết định số 19, ngày 15/10/2019 chấp hành xong quyết định.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 14/11/2019 đến ngày 24/01/2020 được thay đổi biện phạm tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án :

1. Anh Quách Văn H1, sinh năm 1996; thường trú: Thôn Đ xã C, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

2. Anh Hồ Bảo H2, sinh năm 1991; thường trú: Ấp H3, xã T huyện M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

3. Chị Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1963; thường trú: Ấp T xã L huyện B, tỉnh Tây Ninh.

4. Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1988; thường trú: Xóm 17 xã L huyện Đ, tỉnh Nghệ An; tạm trú: 68/25B tổ 9 khu phố 3, phường T, Thành phố H, tỉnh Đồng Nai.

Người làm chứng:

1.Anh Mai Thành T.

2.Anh Nguyễn Thanh H3.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Bị cáo Trần Thành H quen biết người tên Bèo (không rõ nhân thân). Bèo thuê H vận chuyển xe mô tô do người khác trộm cắp từ Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về Tây Ninh với số tiền 500.000 đồng/1 xe. Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 13/11/2019, Bèo điện thoại cho H theo số 0972.796.152 nói H “đến vòng xoay Tam Hiệp, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nhận xe chạy về thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cho Bèo”. H đón xe ô tô buýt đi đến vòng xoay Tam Hiệp gọi cho Bèo, Bèo nói H “quay lại cầu mới Hóa An, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai chờ”. Đến khoảng 20 giờ 00 phút cùng ngày Bèo điều khiển xe mô tô kiểu dáng Wave (không rõ biển số) đến chở Hưng chạy đến cầu Bửu Hòa thuộc phường Bửa Hòa, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Tại đây, một người (không rõ nhân thân) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh xám đen, gắn biển số 37M1-766.73 đến và giao xe mô tô cho Bèo. Bèo đưa H 500.000 đồng nói “H chạy xe về Thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương gọi lại cho Bèo để cho người ra nhận xe”, H điều khiển xe mô tô đi được một đoạn gặp Hồ Bảo H2 đang dắt xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, gắn biển số 36E1-335.12, do xe không nổ máy H2 nhờ H đẩy dùm. Lúc này, H điều khiển xe gắn biển số 37M1-766.73 kè đẩy xe mô tô gắn biển số 36E1-335.12 cho H2 đến cây xăng rồi cả hai vào đổ xăng. Xe H2 điều khiển không nổ máy, H tiếp tục điều khiển xe mô tô của mình kè đẩy xe mô tô của H2, khi cả hai lưu thông đến đường Mỹ Phước - Tân Vạn thuộc khu phố Tấn Phước, phường Tân Bình, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương bị Công an phường Tân Bình kiểm tra hành chính, đưa về phường Tân Bình làm việc, H thừa nhận việc vận chuyển xe cho người tên Bèo.

Qua điều tra thể hiện:

+ Xe mô tô gắn biển số 37M1-766.73 do Trần Thành H điều khiển có biển số thật là 36E1-335.12, đây là biển số xe do Hồ Bảo H1 điều khiển, xe trên là tài sản của anh Quách Văn H1, anh H1 bị mất xe vào ngày 12/11/2019 tại địa chỉ phường 9, Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

+ Xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh gắn biển số 36E1-335.12 do Hồ Bảo H2 điều khiển có biển số thật là 60H1-172.77, đây là tài sản của anh Hồ Diên B, anh B bị mất xe ngày 12/11/2019 tại địa chỉ xã An Viễn, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

Kết luận định giá tài sản số 278/BB.ĐG ngày 12/12/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh xám đen, số máy: G3D4E728019, số khung: RLCU0610JY699689, biển số: 36E1-335.12 có trị giá 26.000.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: Biển số xe 36E1-335.12; biển số xe 37M1-766.73; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh xám đen, số máy: JG3D4E728019, số khung: 0610JA699689; 01 chìa khóa xe có quấn băng keo màu đen ở phần lưỡi chìa; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F3 màu trắng, sim số 0972.796.152 và 350.000 đồng của Trần Thành H (số tiền 150.000 đồng H dùng đổ xăng và ăn uống).

Vật chứng đã xử lý:

+ Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh xám đen, số máy: G3D4E728019, số khung: RLCU0610JY699689 biển số 36E1-335.12. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã chuyển cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng để điều tra, xử lý theo thẩm quyền.

+ Biển số xe 37M1-766.73 là biển số của xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ đen, số máy JF66E0721061, số khung: RLHJF5818GY721014 do chị Nguyễn Thị V làm chủ sở hữu. Ngày 11/11/2019, chị V bị mất xe tại nhà trọ địa chỉ số 68/25B tổ 9, khu phố 3, phường B, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã thông báo cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tiếp nhận hồ sơ, vật chứng thụ lý theo thẩm quyền.

Đi với vụ án Trộm cắp tài sản liên quan đến xe mô tô biển số 36E1- 335.12, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đã khởi tố vụ án, điều tra theo thẩm quyền.

Đi với hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có của Hồ Bảo H2 thực hiện. Ngày 17/4/2020, Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã xét xử bằng bản án số 97.

Đi với số điện thoại di động 0949.442.378 của người tên Bé liên lạc với H qua điều tra xác định số điện thoại trên có chủ thuê bao là Hoàng Trọng Đại, nhưng Đại không có mặt tại địa phương nên chưa làm việc được, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Dĩ An tách xác minh xử lý sau.

Cáo trạng số 99/CT – VKS ngày 10 tháng 02 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Thành H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i,s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo H từ 1 năm 6 tháng đến 02 năm tù Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 chìa khóa xe có quấn băng keo màu đen ở phần lưỡi chìa; sim số 0972.796.152 Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 350.000 đồng của Trần Thành H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F3 màu trắng. Buộc bị cáo H nộp lại 150.000 đồng sung vào ngân sách Nhà nước Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo H nói lời sau cùng: Xin xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo Trần Thành H: Biên bản kiểm tra tình trạng xe máy ngày 14/11/2019; lời khai bị cáo H, lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thể hiện ngày 13/11/2019 khi được người tên Bèo (không rõ nhân thân) giao xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh xám đen có số máy: G3D4E728019, số khung: RLCU0610JY699689, biển số: 36E1-335.12 trị giá 26.000.000 đồng. H biết xe trên có nguồn gốc do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn nhận lời Bèo để điều khiển xe từ Thành phố Biên Hòa về Thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương để nhận tiền công 500.000 đồng. Hành vi trên của bị cáo H đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 99/CT-VKS ngày 10/02/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo H không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản thiệt hại trong vụ án đã được thu hồi; trong quá trình điều tra bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo H có nhân thân xấu thể hiện không có việc làm ổn định, bị cáo có tiền sự.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo H phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 03 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra ngoài việc góp phần xâm phạm trực tiếp đến tài sản hợp pháp của chủ sở hữu được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an và an toàn cho xã hội tại địa phương, hành vi của bị cáo góp phần cho tội phạm hình sự ngày một gia tăng. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo H mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất mức độ tội phạm bị cáo thực hiện để sau này không vi phạm nữa. [3] Về trách nhiệm dân sự: Xe mô tô do H tiêu thụ cho Bèo đã được thu hồi giao cơ quan chức năng trả người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ 01 chìa khóa xe có quấn băng keo màu đen ở phần lưỡi chìa; sim số 0972.796.152, vật chứng do liên quan, sử dụng vào việc phạm tội. Do vậy, tịch thu tiêu hủy.

Đi với số tiền 350.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F3 màu trắng thu giữ từ bị cáo H do phạm tội mà có, sử dụng vào việc phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Đối với số tiền 150.000 đồng bị cáo H thu lợi đã sử dụng, cần buộc bị cáo nộp sung vào ngân sách Nhà nước.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận. Riêng mức hình phạt đối với bị cáo H có phần nghiêm khắc. Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo H mức hình phạt thấp hơn so với mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

[6] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo H phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thành H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thành H 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, bị cáo được tính trừ thời gian tạm giam từ ngày 14/11/2019 đến ngày 24/01/2020.

2.Các biện pháp tư pháp Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 chìa khóa xe có quấn băng keo màu đen ở phần lưỡi chìa; sim số 0972.796.152 + Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 350.000 đồng (ba trăm năm mươi nghìn đồng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F3 màu trắng.

Buộc bị cáo Trần Thành H nộp lại 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) sung vào ngân sách Nhà nước.

Theo biên lai thu tiền số 01450 ngày, biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/02/2020 tại chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14

Bị cáo Trần Thành H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 158/2020/HS-ST ngày 15/05/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:158/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;