Bản án 156/2021/HSST ngày 31/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BẢN ÁN 156/2021/HSST NGÀY 31/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 05 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 159/2021/HSST ngày 14 tháng 05 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 164/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 05 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Phạm Vũ H, sinh năm: 1998; Hộ khẩu thường trú: Số 9 phố T, phường T, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; Chỗ ở: Số 6 ngõ 41 phố B, phường B, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông: Phạm Văn T; Con bà: Vũ Thanh N; Tiền sự: 01 tiền sự; Tiền án: 01 tiền án.

- Tiền sự: Năm 2013, Công an phường Trương Định, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ vũ khí thô sơ (Đã hết thời hiệu).

- Tiền án: Năm 2014, TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 05 năm tù về tội Cướp tài sản. Ra trại ngày 28/4/2017 (Đã xóa án tích).

Danh chỉ bản số 92 lập ngày19/01/2021 do Công an quận Nam Từ Liêm cung cấp. Bắt trong trường hợp khẩn cấp ngày 05/01/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội.

Có mặt tại phiên toà.

2. Đặng Trần A, sinh năm: 1993; Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Ngõ 151 phố L, phường L, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Đặng Trần T; Con bà: Nguyễn Thị Tuyết M; Tiền sự: 01 tiền sự; Tiền án: không.

- Tiền sự: Năm 2008, Công an phường Phạm Đình Hổ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Gây rối trật tự công cộng (Đã hết thời hiệu).

Danh chỉ bản 88 lập ngày 19/01/2021 do Công an quận Nam Từ Liêm cung cấp. Bắt trong trường hợp khẩn cấp ngày 05/01/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội.

Có mặt tại phiên toà.

* Nƣời bào chữa cho bị cáo Đặng Trần A: Ông Phạm Ngọc Dũng - Luật sư Công ty Luật TNHH Một thành viên X30 - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.

Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cơ quan CSĐT – Công an quận Nam Từ Liêm - thành phố Hà Nội đang tiến hành điều tra vụ án “Cướp tài sản” xảy ra ngày 04/01/2021 tại phường Phú Đô, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Quá trình điều tra xác định Phùng Văn T (sinh năm: 1999, trú tại: thôn Đại Quang, xã Sơn Động, thị xã Sơn Tây, Hà Nội) là đối tượng liên quan trong vụ án và đang ở nhà của Phạm Vũ H tại địa chỉ số 6 ngõ 41 phố B, phường B, Hai Bà Trưng, Hà Nội nên hồi 16 giờ 30 phút ngày 05/01/2021, Cơ quan CSĐT – Công an quận Nam Từ Liêm đãthực hiện lệnh khám xét khẩn cấp địa chỉ trên. Quá trình khám xét có Phùng Văn T và Phạm Vũ H là chủ nhà có mặt. Kết quả khám xét phát hiện thu giữ tại ổ điện nhà H: 01 (Một) túi nylon màu trắng kích thước khoảng (2 x 2)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng; Thu giữ tại tủ quần áo:

09 (Chín) túi nylon màu trắng kích thước khoảng (2 x 2)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng; 01 (Một) chiếc cân tiểu ly. Tại chỗ Phạm Vũ H khai nhận số ma túy thu giữ gồm 09 (chín) túi nylon màu trắng kích thước khoảng (2 x 2)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng là ma túy của Đặng Trần A nhờ H cất giữ hộ mục đích để sử dụng, còn 01 (Một) túi nylon màu trắng kích thước khoảng (2 x 2)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng thu giữ tại ở điện là ma túy của H mua từ lâu và cất giấu mục đích để sử dụng. Cơ quan Công an đã tạm giữ vật chứng, niêm phong sau đó đưa Phùng Văn T, Phạm Vũ H cùng vật chứng về trụ sở để xác minh, làm rõ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã trưng cầu giám định số ma túy thu giữ của H. Bản kết luận giám định số 494/PC09 ngày 14/01/2021 của Phòng KTHS- CATP Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 09 túi nilon đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 2,345 gam.

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,008 gam.

Tại cơ quan điều tra, Phùng Văn T, Phạm Vũ H khai nhận: Chiều ngày 04/01/2021, Phùng Văn T đến nhà Phạm Vũ H tại số 6 ngõ 41 phố B, phường B, Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội chơi và sau đó ngủ tại đây. Khoảng 13h00’ ngày 05/01/2021, Đặng Trần A đến nhà Phạm Vũ H chơi và gặp Phùng Văn T tại nhà H. Quá trình ngồi chơi nói chuyện, A, T và H rủ nhau sử dụng ma túy. A nói A biết chỗ mua ma túy nên A bảo để A đi mua ma túy về để cả 03 (Ba) người cùng sử dụng, tiền mua ma túy là của A, H và T không phải góp tiền mua ma túy. Rồi A đi một mình đến khu vực ngã ba Lê Thanh Nghị - Giải Phóng, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội, gặp và mua của một người đàn ông tên K (không rõ nhân thân lai lịch) 01 (Một) túi nylon bên trong có 09 (Chín) túi nylon chứa tinh thể màu trắng là ma túy “đá” với giá tiền là: 1.000.000 đ (Một triệu đồng). Sau khi mua được ma túy, A mang số ma túy mua được quay về nhà H. Rồi A đưa số ma túy vừa mua được ra và lấy một ít ma túy bên trong túi nylon đó để A, H và T cùng nhau sử dụng ma túy ở trên gác nhà H. Sau khi sử dụng ma túy xong, số ma túy còn lại A để trên giường nhà H và bảo H cất đi để sau này mấy anh em cùng nhau sử dụng và H đồng ý. Sau đó, A đi làm, H cầm số ma túy mà A để lại cất vào tủ quần áo nhà H, rồi H đi xuống tầng 1 (Một) nhà H còn T nằm ngủ ở trên gác nhà H. Đến 16h30 ngày 05/01/2021 cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Nam Từ Liêm tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phùng Văn T tại địa chỉ số 6 ngõ 41 phố B, phường B, Hai Bà Trưng, Hà Nội thu giữ tang vật như đã nêu trên.

Căn cứ vào lời khai của T và H, Cơ quan điều tra đã triệu tập Đặng Trần A để làm rõ. Lời khai của Đặng Trần A phù hợp với nội dung trên.

Đối với người đàn ông tên K đã bán ma túy cho Đặng Trần A vào ngày 05/01/2021, A khai không rõ nhân thân lai lịch. Cơ quan điều tra đã tổ chức dẫn giải để A xác định địa điểm mua ma túy và người bán ma túy. Kết quả A xác định được địa điểm mua ma túy tại khu vực ngã ba Lê Thanh Nghị - Giải Phóng phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội nhưng không xác định được người bán ma túy. Do vậy không có căn cứ xác minh, làm rõ.

Đối với gói ma túy thu giữ của Phạm Vũ H tại ổ điện nhà H: H khai là của riêng H mua về để sử dụng, H không nhớ thời gian, địa điểm đã mua ma túy và đã mua của ai. Do vậy, không xác định được người bán ma túy cho H nên không có căn cứ để xác minh, làm rõ.

Đối với Phùng Văn T: T không góp tiền mua ma túy để sử dụng, cũng không cất giấu ma túy hộ cho A. Vì vậy, ngày 04/3/2021, Công an quận Nam Từ Liêm, TP Hà Nội đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Phùng Văn T về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy theo Khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/20213/NĐ – CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, phạt tiền : 750.000 đ (Bảy trăm năm mươi ngàn đồng).

Tại Bản cáo trạng số148/CT/VKS-HS ngày 13 tháng 5 năm 2021 đã truy tố bị cáo Phạm Vũ H và Đặng Trần A về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan công an, công nhận nội dung bản cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Phạm Vũ H và bị cáo Đặng Trần A như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng. Sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, đánh giá mức độ phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phạm Vũ H với mức án từ 42 tháng đến 48 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đặng Trần A với mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Phạm Vũ H và Đặng Trần A do các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong có 01 túi nilon chứa 2,353 gam ma túy loại Methamphetamine bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Phạm Vũ H, đối tượng Phùng Văn T.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì giấy có niêm phong bên trong có chứa một chiếc cân điện tử, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Phạm Vũ H, đối tượng Phùng Văn T vì liên quan đến hành vi phạm tội.

- Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ hộp bút màu xám có khóa kéo vì có liên quan đến hành vi phạm tội.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Đặng Trần A có ý kiến:

- Nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo Đặng Trần A.

- Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do:

+ Vợ chồng bị cáo có mâu thuẫn, trục trặc và đã ly hôn nên bị cáo buồn, chán nản dẫn đến việc sử dụng ma túy.

+ Hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, hiện bị cáo đang nuôi 02 con nhỏ.

+ Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Ông nội, ông ngoại là liệt sĩ. Ngoài ra, bị cáo cũng đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự của Nhà nước.

Các bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đƣợc thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nhƣ sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người trong trường hợp khẩn cấp; phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP. Hà Nội và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 16h30 ngày 05/01/2021, tại nhà số 6 ngõ 41 phố B, phường B, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Đặng Trần A có hành vi tàng trữ trái phép 2,345 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng. Phạm Vũ H có hành vi tàng trữ 2,353 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Vũ H và Đặng Trần A đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

“Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

“1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy .... thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………… c) … Methamphetamine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;" Do đó viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố bị cáo Phạm Vũ H và bị cáo Đặng Trần A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm an ninh trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện làm huỷ hoại sức khoẻ con người, làm sói mòn đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Hành vi của các bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán ma tuý và ma tuý cũng là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.

[3]. Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án: Trong vụ án này bị cáo Phạm Vũ H và Đặng Trần A đồng phạm cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo A là người có vai trò rủ rê, A là người bỏ tiền đi mua ma túy. Sau khi sử dụng, A bảo H cất số ma túy còn lại để sử dụng sau và H đồng ý. Ngoài số ma túy mà A mua về, bị cáo H còn phải chịu trách nhiệm đối với hành vi tàng trữ số ma túy mà trước đó bị cáo đã mua và cất tại nhà để sử dụng nên tổng khối lượng số ma túy mà bị cáo H phải chịu trách nhiệm hình sự là 2,353 gam. Do vậy khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ xem xét vai trò, trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo trong vụ án.

[4]. Xét nhân thân của các bị cáo: Bị cáo Phạm Vũ H có 01 tiền sự năm 2013 đã hết thời hiệu, 01 tiền án năm 2014 đã được xóa. Tuy các tiền sự đã hết thời hiệu, tiền án đã được xóa nhưng cho thấy bị cáo là người có nhân thân xấu, đã được pháp luật giáo dục nhưng bị cáo vẫn không chịu cải tạo, rèn luyện bản thân để hòa nhập với cộng đồng mà vẫn tiếp tục vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáothành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Bị cáo Đặng Trần A không có tiền án, có 01 tiền sự năm 2008 đã hết thời hiệu. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có công với cách mạng, có ông nội và ông ngoại là liệt sĩ. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 (Năm triệu) đồng đến 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng”. Tuy nhiên, xét các bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong có 01 túi nilon chứa 2,353 gam ma túy loại Methamphetamine bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Phạm Vũ H, đối tượng Phùng Văn T.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì giấy có niêm phong bên trong có chứa một chiếc cân điện tử, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Phạm Vũ H, đối tượng Phùng Văn T vì liên quan đến hành vi phạm tội.

- Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ hộp bút màu xám có khóa kéo vì có liên quan đến hành vi phạm tội.

[6]. Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố : Bị cáo Phạm Vũ H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Vũ H 38 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/1/2021.

Tuyên bố : Bị cáo Đặng Trần A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đặng Trần A 28 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/1/2021.

2. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho các bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng :

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong có 01 túi nilon chứa 2,353 gam ma túy loại Methamphetamine bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Phạm Vũ H, đối tượng Phùng Văn T.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì giấy có niêm phong bên trong có chứa một chiếc cân điện tử, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Phạm Vũ H, đối tượng Phùng Văn T.

- Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ hộp bút màu xám có khóa kéo.

Các tang vật trên hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 01 tháng 06 năm 2021 (TV:224/21) giữa Công an quận Hai Bà Trưng và Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng.

4. Về án phí Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc mỗi bị cáo Phạm Vũ H và Đặng Trần A phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo : Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 156/2021/HSST ngày 31/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:156/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;