Bản án 154/2021/HSST ngày 28/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 154/2021/HSST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 157/2021/TLST-HS ngày 14/9/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 152/2021/QĐXXST- HS ngày 16/9/2021, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Quốc T - Sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản L, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đảng phái: Không; Con ông Nguyễn Xuân L, con bà Mai Thị T; Bị cáo đã có vợ nhưng đã ly hôn và có 02 con (con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2016); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, giam từ ngày 09/6/2021 cho đến nay. Có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Lò Văn T1 - Sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản L, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đảng phái: Không; Con ông Lò Văn T, con bà Hoàng Thị H; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, giam từ ngày 09/6/2021 cho đến nay. Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30, ngày 09/6/2021 tổ công tác Công an xã Chiềng Khoong, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Lán Lanh, xã Chiềng Khoong, huyện Sông Mã thấy hai người đàn ông đi trên một mô tô từ hướng bản Lán Lanh ra hướng bản Mòn, xã Chiềng Khoong có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy, tổ công tác yêu cầu dừng xe tiến hành kiểm tra hành chính, người điều khiển xe khai tên là là Nguyễn Quốc T, người ngồi sau khai là Lò Văn T1, quá trình kiểm tra tổ công tác yêu cầu hai đối tượng có đồ vật vi phạm pháp luật thì giao nộp, Tỉnh đã tự lấy từ trong miệng ra giao nộp cho tổ công tác 01 gói nilon màu hồng bên trong có 19 viên nén màu hồng (T và T1 khai nhận là Hồng phiến), tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn tạm giữ của T 01 xe mô tô và 01 điện thoại di động, tạm giữ của T1 01 điện thoại di động.

Ngày 10/6/2021 tại Công an huyện Sông Mã tiến hành mở niêm phong cân tịnh xác định khối lượng vật chứng nghi là ma túy, kết quả: 19 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 2,20 gam, trích 02 viên có khối lượng 0,20 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu T. Vật chứng còn lại 17 viên có tổng khối lượng 1,82 gam ký hiệu T1.

Tại Kết luận giám định số 1108 ngày 11/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,20 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,02 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên toà Nguyễn Quốc T và Lò Văn T1 khai nhận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 09/6/2021 Nguyễn Quốc T nhắn tin qua Massenger cho Lò Văn T1 rủ T1 đi tìm mua cây hoa lan, T1 đồng ý, T mang theo số tiền 500.000đ điều khiển xe mô tô đi đến đón T1 ở bản Lè, xã Chiềng Khoong, huyện Sông Mã, sau đó đi đến bản Lán Lanh, xã Chiềng Khoong vào nhà một người dân tộc Mông để hỏi mua cây hoa lan nhưng không có ai ở nhà, T rủ T1 tìm mua ma túy, T1 nhất trí sau đó chỉ đường cho Toản điều khiển xe đi lên bản Huổi Mòn, xã Chiềng Khoong, khi đến đầu bản thì thấy một người đàn ông đang đứng ở trước cửa nhà, T1 đi vào gặp và nhờ người này đi mua hồng phiến hộ, người đàn ông đồng ý nên T1 bảo T đưa tiền, T lấy tờ tiền mệnh giá 500.000đ đưa cho T1, T1 cầm rồi đưa cho người đàn ông, người này bảo T1 và T xuống bếp ngồi chờ, khoảng 10 phút sau người đàn ông quay lại và đặt lên trên mặt chiếc giường kê ở trong bếp 01 gói nilon màu hồng có chứa viên hồng phiến, sau đó người này lấy từ tay trái ra 04 viên hồng phiến khác cùng T và T1 sử dụng, khi đang sử dụng thì nghe thấy tiếng người bên ngoài nên T1 cầm lấy gói hồng phiến để ở trên giường rồi bảo T điều khiển xe đi về, trên đường về T1 cho gói nilon vào trong miệng ngậm, khi hai người về đến cuối bản Lán Lanh, xã Chiềng Khoong, huyện Sông Mã thì bị tổ công tác Công an xã Chiềng Khoong yêu cầu dừng xe kiểm tra, T1 đã tự lấy gói ma tuý từ trong miệng ra giao nộp cho tổ công.

Tại Cáo trạng số 116/CT-VKS ngày 13/9/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Nguyễn Quốc T và Lò Văn T1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên thực hành quyền công tố phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích nội dung vụ án, các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra cũng như diễn biến tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Quốc T và Lò Văn T1 phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T từ 26 - 32 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lò Văn T1 từ 24 - 30 tháng tù.

Miễn hình phạt bổ xung cho các bị cáo.

Buộc bị cáo Nguyễn Quốc T chịu án phí theo quy định; miễn án phí cho bị cáo Lò Văn T1.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy số ma tuý còn lại và vật chứng liên quan. Trả lại cho các bị cáo điện thoại di động. Tuyên quyền kháng cáo cho các bị cáo.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, thống nhất với lời khai nhận trong quá trình điều tra, truy tố. Nhất trí với nội dung Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên. Khi được nói lời sau các bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên toà các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 09/6/2021; Vật chứng bị thu giữ; Kết luận giám định số 1108 ngày 11/6/2021; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung đối với các bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện hành vi phạm tội; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi cất giấu 2,02gam ma tuý loại Methamphetamine của các bị cáo Nguyễn Quốc T và Lò Văn T1 đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy - Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố và Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử các bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, không oan sai cho các bị cáo.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, không chỉ gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương mà còn ảnh hưởng sức khỏe con người, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và vai trò của các bị cáo: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - Là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đối với bị cáo Lò Văn T1, trước khi bị phát hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã tự giác giao nộp số ma tuý đang giấu trong khoang miệng - Là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này Nguyễn Quốc T có vai trò chính đã khởi sướng, rủ rê Lò Văn T1 và là người bỏ tiền để mua ma tuý. Lò Văn T1 là đồng phạm với vai trò là người giúp sức trực tiếp trao đổi mua ma tuý, áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, khối lượng ma túy các bị cáo tàng trữ, vai trò của các bị cáo để quyết định một mức hình phạt phù hợp, nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều sống phụ thuộc bố mẹ, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, các bị cáo không có tài sản riêng, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với số ma tuý và vật chứng liên quan cần tịch thu tiêu huỷ. Đối với điện thoại di động do không liên quan đến việc phạm tội, cần trả lại các bị cáo.

[7] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông dân tộc Mông các bị cáo khai nhận bán ma túy cho các bị cáo, quá trình điều tra do các bị cáo không biết tên, tuổi cụ thể của người này, nên không có căn cứ để xác minh mở rộng vụ án.

Đối với chiếc xe mô tô là phương tiện các bị cáo thực hiện tội phạm, xét thấy chiếc xe thuộc sở hữu của bà Mai Thị T (mẹ bị cáo T), khi các bị cáo sử dụng chiếc xe làm phương tiện thực hiện tội phạm bà T không biết, cơ quan điều tra đã trả lại cho bà T là có căn cứ.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quốc T phải chịu án phí theo quy định. Bị cáo Lò Văn T1 là người dân tộc thiểu số sống ở nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí theo quy định.

[9] Về đề nghị của Kiểm sát viên: Đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và các vấn đề liên quan khác là phù hợp, nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Quốc T, Lò Văn T1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 27 (hai mươi bẩy) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày 09/6/2021.

+ Xử phạt bị cáo Lò Văn T1 26 (hai mươi sáu) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày 09/6/2021.

- Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

- Quyết định tạm giam mỗi bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án..

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại và các vật chứng liên quan bao gồm:

+ 1,82 gam Methamphetamine.

+ 01 mảnh nilon màu hồng.

+ 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

(các vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 046376).

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Quốc T 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG vỏ màu vàng.

- Trả lại cho bị cáo Lò Văn T1 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG vỏ màu xanh.

Theo Quyết định chuyển vật chứng 115/QĐ-VKSSM ngày 13/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/9/2021 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí:

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Quốc T chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Miễn nộp khoản tiền án phí hình sự cho bị cáo Lò Văn T1.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 28/9/2021./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 154/2021/HSST ngày 28/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:154/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;