Bản án 15/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Văn D (Lê Văn D), sinh năm 1987, tại huyện C, tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T (đã chết) và bà Lương Thị N (đã chết); có vợ là Nguyễn Thị Bé N (không đăng ký kết hôn) và 01 con sinh năm 2021;

Tiền án, tiền sự: chưa;

Bị tạm giữ từ ngày 21/12/2020 đến ngày 30/12/2020 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.

Nhân thân:

+ Ngày 30/01/2013, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xử phạt 12 tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích”; chấp hành xong ngày 22/12/2013;

+ Ngày 26/10/2015, bị Công an huyện L, tỉnh Đồng Tháp xử phạt vi phạm hành chính 3.000.000 đồng về hành vi “sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma túy”; đã nộp phạt xong.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Nguyễn Văn Hồng A, sinh năm 1997; nơi cư trú: ấp V, xã V, huyện V, thành phố Cần Thơ; vắng mặt.

- Ông Cao Văn K (C), sinh năm 1995; nơi cư trú: ấp T, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; vắng mặt.

- Ông Lê Văn T (T), sinh năm 1986; nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; có mặt.

- Bà Nguyễn Thị Bé N (T1), sinh năm 1993; nơi cư trú: tổ A, ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

Người làm chứng:

- Bà Võ Thị Bích T2; vắng mặt.

- Ông Trương Văn B; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 30 phút ngày 21/12/2020, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Công an xã H phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an huyện C bắt quả tang Lê Văn D (Lê Văn D) tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà thuộc tổ A, ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang. Thu giữ trên kệ tủ nhôm trong phòng ngủ của D 01 hộp giấy hình chữ nhật, màu nâu, có chữ GUCCI, bên trong có 01 bịch nilon trong suốt, có rãnh khóa một đầu viền màu trắng, chứa chất tinh thể màu trắng và 01 hộp bằng kim loại màu xanh - trắng, bên trong có chứa 03 bịch nilon trong suốt hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và nhiều đồ vật, tài liệu có liên quan. D khai nhận 04 bịch nilon bị thu giữ là ma túy đá mua của người lạ (không rõ họ, tên, địa chỉ) ở Thành phố H, với giá 1.500.000 đồng, mục đích để sử dụng. D bị tạm giữ để điều tra.

- Vật chứng thu giữ: 01 hộp giấy hình chữ nhật, màu nâu, có chữ GUCCI, bên trong có 01 bịch nilon trong suốt, có rãnh khóa một đầu viền màu trắng, chứa chất tinh thể màu trắng; 01 hộp bằng kim loại màu xanh - trắng, bên trong có chứa 03 bịch nilon trong suốt hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng;

01 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống nhựa màu trắng; 01 muỗng nhựa màu trắng; 01 cân điện tử màu bạc; 01 ống nhựa màu vàng sọc trắng, cắt xéo một đầu; 01 bật lửa màu tím; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen có gắn sim số 0949044620; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng có gắn sim số 0823625878 và 0908952962.

- Căn cứ Kết luận giám định số 326/KLGT-PC09(MT) ngày 27/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, ghi nhận: Mẫu gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 4,7989 gam.

Ngày 30/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới khởi tố, tạm giam D để điều tra xử lý.

Tại Cáo trạng số 12/CT-VKSCM ngày 23 tháng 3 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Lê Văn D (Lê Văn D) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, - Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Lê Văn T (T), bà Nguyễn Thị Bé N (T1) cung cấp lời khai như đã khai trong giai đoạn điều tra.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Pháp luật nghiêm cấm việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy dưới mọi hình thức. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật và tội phạm. Về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu do đã 01 lần bị Tòa án kết án, 01 lần bị xử phạt vi phạm hành chính. Cho nên, đề nghị xử phạt nghiêm bị cáo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Cho nên, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung, do bị cáo nghiện ma túy, không nghề nghiệp nên đề nghị không áp dụng.

Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy cùng vật chứa ma túy, vật được dùng vào việc sử dụng ma túy bị thu giữ; giao trả cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Samsung có gắn sim số 0949044620 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia có gắn sim số 0823625878 và 0908952962.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Mới, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, bị cáo Lê Văn D khai nhận, ngày 17/12/2020, bị cáo đến Quận A, Thành phố H mua của 01 người thanh niên (không rõ họ tên, địa chỉ) 01 bịch ma túy đá với số tiền 1.500.000 đồng. Bị cáo mang về nhà, phân ra được 04 bịch nhỏ, để 03 bịch vào hộp bằng kim loại màu xanh - trắng rồi cất giấu chung với bịch ma túy còn lại vào 01 hộp màu nâu, có chữ GUCCI để trên kệ tủ nhôm trong phòng ngủ của bị cáo. Sau khi đi chơi với T, K, khoảng 04 giờ ngày 21/12/2020, bị cáo lấy ma túy ra sử dụng với Nguyễn Văn Hồng A. Một lúc sau, Lê Văn T, Cao Văn K đến nhà cùng sử dụng ma túy với bị cáo, ông A. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, lực lượng Công an kiểm tra, thu giữ 01 hộp giấy hình chữ nhật, màu nâu, có chữ GUCCI, bên trong có 01 bịch nilon trong suốt, có rãnh khóa một đầu viền màu trắng, chứa chất ma túy và 01 hộp bằng kim loại màu xanh - trắng, bên trong có chứa 03 bịch nilon trong suốt hàn kín, bên trong chứa chất ma túy và các vật chứng khác có liên quan.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra; phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác gồm: biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 21/12/2020 do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới lập; biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 21/12/2020 cùng sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường kèm theo do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới lập; lời khai của bà Võ Thị Bích T2, ông Trương Văn B, bà Nguyễn Thị Bé N về việc chứng kiến lực lượng Công an khám xét, thu giữ 01 hộp giấy hình chữ nhật, màu nâu, có chữ GUCCI, bên trong có 01 bịch nilon chứa chất chất tinh thể màu trắng và 01 hộp bằng kim loại màu xanh - trắng, bên trong có chứa 03 bịch nilon chứa chất chất tinh thể màu trắng và các vật chứng khác. Khi đó, bị cáo khai, chất tinh thể màu trắng trong các bịch nilon là ma túy đá; lời khai của Lê Văn T, Cao Văn K, Nguyễn Văn Hồng A về việc có sử dụng ma túy đá chung với bị cáo vào ngày 21/12/2020. Đến kho ảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, lực lượng Công an kiểm tra, thu giữ 04 bịch nilon chứa chất tinh thể màu trắng tại phòng ngủ của bị cáo. Khi đó, bị cáo khai, chất tinh thể màu trắng trong các bịch nilon bị thu giữ là ma túy.

Bên cạnh đó, lời khai của bị cáo còn phù hợp với vật chứng bị thu giữ khi bắt quả tang gồm: 01 hộp giấy hình chữ nhật, màu nâu, có chữ GUCCI, bên trong có 01 bịch nilon trong suốt, có rãnh khóa một đầu viền màu trắng, chứa chất tinh thể màu trắng; 01 hộp bằng kim loại màu xanh - trắng, bên trong có chứa 03 bịch nilon trong suốt hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng;

01 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống nhựa màu trắng; 01 muỗng nhựa màu trắng; 01 cân điện tử màu bạc; 01 ống nhựa màu vàng sọc trắng, cắt xéo một đầu; 01 bật lửa màu tím; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen có gắn sim số 0949044620; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng có gắn sim số 0823625878 và 0908952962.

Theo Kết luận giám định số 326/KLGT-PC09(MT) ngày 27/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, chất tinh thể màu trắng bên trong các bịch nilon thu giữ của bị cáo được giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 4,7989 gam.

Từ các căn cứ trên có cơ sở xác định, b ị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 4,7989 gam.

Bị cáo là người thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua việc cất giấu ma túy và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân, ma tuý là chất gây nghiện. Một khi đã sử dụng thì khó có thể từ bỏ được. Chúng được xem nguyên nhân làm suy giảm sức khỏe, suy thoái nòi giống. Tệ nạn ma tuý còn được xem là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội, tội phạm, ảnh hưởng nghiêm trọng trật tự, an toàn xã hội.

Bị cáo là người thành niên, đang ở tuổi lao động nhưng lại lao vào con đường nghiện ngập. Để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy mà Nhà nước, xã hội đang ra sức thực hiện. Bên cạnh đó, bị cáo có nhân thân xấu do đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xử phạt 12 tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích” vào ngày 30/01/2013 và bị Công an huyện L, tỉnh Đồng Tháp xử phạt vi phạm hành chính 3.000.000 đồng về hành vi “sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma túy” vào ngày 26/10/2015. Do đó, cần có hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như trước phiên toà hôm nay, bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, cần xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung, xét bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, không nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm của người liên quan:

Bị cáo khai, lượng ma túy bị thu giữ được bị cáo mua của người thanh niên lạ ở Thành phố H. Do chưa xác định được họ tên, địa chỉ của người thanh niên bán ma túy cho bị cáo nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới tiếp tục làm rõ, xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

T, K và Hồng A cùng bị cáo sử dụng ma túy và đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới giao chính quyền địa phương xử lý là phù hợp quy định pháp luật nên không đề cập xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Lượng ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang bị cáo là vật cấm lưu hành; 01 hộp giấy hình chữ nhật, có chữ GUCCI, 01 hộp bằng kim loại màu xanh - trắng, 01 cây kéo bằng kim loại, 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống nhựa màu trắng, 01 muỗng nhựa màu trắng, 01 cân điện tử màu bạc, 01 ống nhựa màu vàng sọc trắng, 01 bật lửa màu tím là vật được dùng vào việc chứa ma túy và sử dụng ma túy, có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội và không còn giá trị sử dụng. Vì vậy, tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy và các vật dụng này theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung và 01 điện thoại di động hiệu Nokia và sim số kèm theo, do các điện thoại này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên giao trả lại bị cáo 02 điện thoại di động cùng sim số kèm theo bị thu giữ theo điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Lê Văn D (Lê Văn D) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy;

Xử phạt: Lê Văn D: 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị tạm giữ, ngày 21/12/2020 (ngày hai mươi mốt, tháng mười hai, năm hai nghìn không trăm hai mươi).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong (Vụ số: 326/KLGT-PC09(MT) ngày 27/12/2020) có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng K1 và Đặng Hữu T3. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định, khối lượng 4,6097g (bốn phẩy sáu không chín bảy gam);

+ 01 (một) hộp giấy hình chữ nhật, màu nâu nhãn hiệu GUCCI;

+ 01 (một) hộp bằng kim loại màu xanh - trắng;

+ 01 (một) bình thủy tinh, có gắn nỏ thủy tinh và ống nhựa màu trắng trên nắp bình;

+ 01 (một) bật lửa gas màu tím;

+ 01 (một) ống nhựa màu vàng, sọc trắng cắt xéo một đầu;

+ 01 (một) cân điện tử màu bạc;

+ 01 (một) cây kéo bằng kim loại màu trắng;

+ 01 (một) muỗng nhựa màu trắng.

- Giao trả cho bị cáo Lê Văn D:

+ 01 (một) điện thoại Samsung màu đen lắp thẻ sim Vinaphone;

+ 01 (một) điện thoại Nokia màu trắng lắp 02 thẻ sim Vinaphone và Mobiphone.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới với Chi cục Thi hành án dân sự huyện C).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Lê Văn D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đ ồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, ông Lê Văn T, bà Nguyễn Thị Bé N có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của ông Nguyễn Văn Hồng A, ông Cao Văn K là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;