Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH B 

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 29/01/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử sơ thẩm công khaivụ án thụ lý số 146/2020/TLST-HNGĐ ngày 11tháng 11 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 137/2020/QĐXX-ST ngày 21/12/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2020/QĐ-ST ngày 11/01/2021 giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị H, sinh năm: 1991 (vắng mặt).

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Hòa Minh, xã Hợp Đ, huyện Tân Y, tỉnh B.

*Bị đơn: Anh Nguyễn Đức Tr, sinh năm: 1990 (vắng mặt).

Nơi ĐKHKTT: Đội 7, xã Việt L, huyện Tân Y, tỉnh B.

Hiện đang lao động tại nước ngoài.

Địa chỉ cuối cùng của Nguyễn Đức Tr tại Việt Nam là Đội 7, xã Việt L, huyện Tân Y, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai ngày 08/10/2020 Nguyên đơn chị Trịnh Thị H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Đức Tr kết hôn vào ngày 15/10/2012 trên có sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Việt L, huyện Tân Y, tỉnh B. Sau một thời gian chung sống đến khoảng tháng 5/2013, sau khi chị sinh con là Nguyễn Đức H1 thì vợ chồng nhận được giấy báo xét nghiệm sàng lọc sau sinh của con với kết quả dương tính với thiếu men GGPD (tan máu bẩm sinh) di truyền từ mẹ. Từ đó gia đình chồng và chị bắt đầu có mâu thuẫn, gia đình chồng và anh Tr đã dùng nhiều lời lẽ xúc phạm ảnh hưởng tới tinh thần của chị. Ngay sau đó, gia đình anh Tr đã làm thủ tục cho anh Tr sang Nhật Bản lao động. Từ ngày 20/9/2013 đến nay anh Tr rất ít khi liên lạc với chị. Ở nhà gia đình anh Tr vẫn không ngừng gây áp lực tinh thần cho chị, tuy nhiên chị vẫn cố gắng để con có gia đình trọn vẹn. Nhưng anh Tr và gia đình chồng chị không có sự thay đổi, ngày càng lạnh nhạt với chị. Đến năm 2017 anh Tr nhiều lần gọi điện đuổi chị không rõ nguyên nhân. Nên tháng 5/2017 chị và con chị đã chuyển về nhà mẹ đẻ và sống ở đó đến nay. Trong thời gian chị sống ở nhà mẹ đẻ anh Tr và gia đình anh Tr hầu như không có liên lạc gì với nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Đức Tr.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Đức Tr có 01 con chung là cháu Nguyễn Đức H1, sinh ngày 04/02/2013 hiện nay đang ở với chị. Ly hôn chị đề nghị được nuôi con chung và không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, chị H còn trình bày: Hiện nay anh Tr vẫn ở nước ngoài, địa chỉ cụ thể của anh Tr ở nước ngoài chị không cung cấp được cho Tòa án được vì chị và anh Tr đã không liên lạc gì với nhau, anh Tr vẫn liên lạc về gia đình nhưng bố mẹ đẻ anh Tr là ông Nguyễn Hồng Tr1, sinh năm 1955, trú tại: Đội 7, xã Việt L, huyện Tân Y, tỉnh B cũng không cung cấp địa chỉ nên chị không biết để cung cấp cho Tòa án.

Do tính chất công việc nên chị không thể tham gia được các phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình giữa chị và anh Tr được, nên chị đề nghị Tòa án cho chị được vắng mặt trong các phiên họp kiểm tra, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa chị và anh Nguyễn Đức Tr.

Bị đơn anh Nguyễn Đức Tr không có bản tự khai.

Ngày 18/11/2020 và ngày 02/12/2020 Tòa án nhân dân tỉnh B đã tiến hành làm việc với bố đẻ của anh Nguyễn Đức Tr là ông Nguyễn Hồng Tr1 sinh năm 1955; trú tại: Thôn Hàng Cơm, xã Việt L, huyện Tân Y, tỉnh B để giao thông báo thụ lý vụ án và yêu cầu ông Tr1 thông báo cho anh Tr biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh B đang thụ lý vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa chị Trịnh Thị H và anh Nguyễn Đức Tr; yêu cầu anh Tr viết bản tự khai, lời khai về cho Tòa án; yêu cầu ông Tr1 cung cấp địa chỉ cụ thể của anh Trở nước ngoài. Tuy nhiên, qua 2 lần làm việc ông Tr1 vẫn giữ nguyên quan điểm là anh Tr ở nước ngoài vẫn thường xuyên liên lạc về cho gia đình nhưng ông không cung cấp địa chỉ cụ thể của anh Tr ở nước ngoài cho Tòa án, vì đây là việc cá nhân của anh Tr, đồng thời ông cũng không thực hiện theo yêu cầu của Tòa án thông báo cho anh Tr biết để anh Tr gửi lời khai về. Kể từ đó đến nay, Tòa án cũng không nhận được bất kỳ lời khai nào của anh Tr gửi về.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trịnh Thị H vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh Nguyễn Đức Tr vắng mặt không có lý do.

Hội đồng xét xử công bố đơn khởi kiện, bản tự khai của chị H; Biên bản làm việc với bố đẻ của anh Tr là ông Nguyễn Hồng Tr1 và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B phát biểu về việc tuân theo pháp luật về tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.

Về việc chấp hành pháp luật của đương sự: Đối với nguyên đơn chị Trịnh Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn anh Nguyễn Đức Tr không có địa chỉ cụ thể ở nước ngoài Tòa án đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với anh Nguyễn Đức Tr; Căn cứ vào quy định của pháp luật xét xử vắng mặt anh Nguyễn Đức Tr là đúng.

- Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng điều 51, 53, 56; Điều 81, 82, 83 và khoản 2 điều 123 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28; khoản 3 điều 35; điểm c khoản 1 điều 37; khoản 4 điều 147; khoản 2 điều 227; khoản 1 điều 228; 238; điều 271; điều 273; khoản 2 điều 479 BLTTDS; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTBVQH14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Thị H. Xử cho chị Trịnh Thị H được ly hôn anh Nguyễn Đức Tr.

Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Đức H1 sinh ngày 04/02/2013 cho chị Trịnh Thị H nuôi dưỡng, chăm sóc.

Chị Trịnh Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên toà. Sau khi thảo luận và nghị án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị Trịnh Thị H là nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt Chị Trịnh Thị H.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Đức Tr vắng mặt tại phiên tòa: Tòa án nhân dân tỉnh B đã tiến hành làm việc với bố đẻ của anh Nguyễn Đức Tr là ông Nguyễn Hồng Tr1 để giao thông báo thụ lý vụ án, yêu cầu ông Tr1 thông báo cho anh Tr biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh B đang thụ lý vụ án tranh chấp Hôn nhân gia đình giữa Chị Trịnh Thị H với anh Nguyễn Đức Tr, yêu cầu ông Tr1 cung cấp địa chỉ cụ thể của anh Tr ở nước ngoài. Ông Nguyễn Hồng Tr1 trình bày: Anh Tr ở nước ngoàivẫn thường xuyên liên lạc về gia đình. Tuy nhiên, Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà ông Tr1 vẫn không cung cấp địa chỉ, tin tức của anh Tr cho Tòa án, cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho anh Tr biết. Nhận thấy đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn theo quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ vào Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao; khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Đức Tr theo thủ tục chung.

[2].Về thẩm quyền: Chị Trịnh Thị H là nguyên đơn có đơn xin ly hôn anh Nguyễn Đức Tr, anh Tr hiện đang lao động tại nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ (theo Công văn số 19820/QLXNC – P5 v/v cung cấp thông tin xuất nhập cảnh ngày 03/11/2020 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an), thì anh Tr xuất nhập cảnh 09 lần, lần xuất cảnh gần nhất là ngày 03/6/2019 hiện chưa có thông tin nhập cảnh trở lại, địa chỉ cuối cùng của anh Tr ở Việt Nam là: thôn Hàng Cơm, xã Việt L, huyện Tân Y, tỉnh B. Như vậy, đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình có đương sự ở nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh B, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ Hôn nhân: Chị Trịnh Thị H và anh Nguyễn Đức Tr kết hôn năm 2012 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Việt L, huyện Tân Y, tỉnh B. Đây là hôn nhân hợp pháp.

Theo chị H trình bày: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến khoảng tháng 5/2013 sau khi chị sinh con là Nguyễn Đức H1 thì vợ chồng nhận được giấy báo xét nghiệm sàng lọc sau sinh của con với kết quả dương tính với thiếu men GGPD (tan máu bẩm sinh) di truyền từ mẹ. Từ đó gia đình chồng và chị bắt đầu có mâu thuẫn, gia đình chồng và anh Tr đã dùng nhiều lời lẽ xúc phạm ảnh hưởng tới tinh thần của chị. Ngay sau đó, gia đình anh Tr đã làm thủ tục cho anh Tr sang Nhật Bản lao động. Từ ngày 20/9/2013 đến nay anh Tr rất ít khi liên lạc với chị. Ở nhà gia đình anh Tr vẫn không ngừng gây áp lực tinh thần cho chị, tuy nhiên chị vẫn cố gắng đẻ con có gia đình chọn vẹn. Nhưng anh Tr và gia đình chồng chị không có sự thay đổi, ngày càng lạnh nhạt với chị. Đến năm 2017 anh Tr nhiều lần gọi điện đuổi chị không rõ nguyên nhân. Nên tháng 5/2017 chị và con chị đã chuyển về nhà mẹ đẻ và sống ở đó đến nay. Trong thời gian chị sống ở nhà mẹ đẻ anh Tr và gia đình anh Tr hầu như không có liên lạc gì với nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Văn Trung.

Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Trịnh Thị H với anh Nguyễn Đức Tr.

Hội đồng xét xử thấy: Kể từ khi sinh cháu Nguyễn Đức H1 thì vợ chồng đã mâu thuẫn, anh Tr đi lao động tại Nhật nhưng không quan tâm gì đến vợ con, chị H và con đã chuyển về nhà mẹ đẻ sinh sống từ tháng 5/2017 cho đến nay.

Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị H và anh Tr đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Thị H. Xử cho chị Trịnh Thị H được ly hôn anh Nguyễn Đức Tr.

[4].Về nuôi con chung: Chị Trịnh Thị H và anh Nguyễn Đức Tr có 01 con chung là cháu Nguyễn Nguyễn Đức H1, sinh ngày 04/02/2013, hiện nay cháu H1 đang ở với chị H. Ly hôn chị H đề nghị được nuôi con chung và không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu H1 con đơn trình bày cháu có nguyện vọng được ở với mẹ.

Xét yêu cầu nuôi con chung của chị Trịnh Thị H: Hội đồng xét xử thấy hiện nay anh Tr đang lao động tại nước ngoài không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Anh Nguyễn Đức Tr từ khi đi nước ngoài thì con chung vẫn do chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu phát triển bình thường, được đi học đầy đủ, cháu H1 có nguyện vọng được ở với mẹ. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu của chị Trịnh Thị H về nuôi con chung. Giao cho chị Trịnh Thị H là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Nguyễn Đức H1, sinh ngày 04/02/2013 đến khi con chung tròn 18 tuổi là phù hợp điều kiện thực tế .

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

Anh Nguyễn Đức Tr có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh Tr thực hiện quyền này.

[5] . Về tài sản, công nợ:Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị Trịnh Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng dân sự; và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh B.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; Điều 273 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 và khoản 2 Điều 123 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273; khoản 2 Điều 479 Bộ Luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trịnh Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Đức Tr.

2. Về con chung: Giao cho chị Trịnh Thị H là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Nguyễn Đức H1, sinh ngày 04/02/2013 đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Đức Tr có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh Tr thực hiện quyền này.

3.Về án phí: Chị Trịnh Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số AA/2018/0000741 ngày 11/11/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B. Xác nhận chị Trịnh Thị H đã nộp đủ.

4.Về quyền kháng cáo bản án: Chị Trịnh Thị H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được tống đạt Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định.

Anh Nguyễn Đức Tr hiện đang ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa có thời hạn kháng cáo Bản án là 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;