TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 11/05/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 11 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2020/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:
Phùng Ngọc H, sinh ngày 13/12/1991 tại Vĩnh Phúc.
Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố 1, thị trấn C, huyện Đ, tỉnh Gia Lai.
Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Phùng Ngọc D, sinh năm 1968 và bà Phùng Thị p, sinh năm 1971; Vợ là Trương Thị T, sinh năm 1993; Có 01 người con, sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt ngày 07/8/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.
* Bị hại:
1. Công ty TNHH một thành viên Home Credit.
Trụ sở công ty: Tầng G, 8 và 10 Tòa nhà Phụ nữ, số 20 Nguyễn Đăng G, phường T, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật của công ty: Ông Dmitry Mosolov - Tổng Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Minh Q; địa chỉ: Tầng G, 8 và 10 Tòa nhà Phụ Nữ, số 20 Nguyễn Đăng G, phường T, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.
2. Anh Nguyễn Thành T, sinh năm 1998; địa chỉ: 416/4B P, phường 1, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Phùng Ngọc D, sinh năm: 1968.
Trú tại: Tổ dân phố 1, thị trấn C, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
2. Bà Trần Thị C, sinh năm: 1968.
Trú tại: Làng Bi, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
3. Anh Trần Văn D, sinh năm: 1987.
Trú tại: Thôn M, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
* Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Hữu P, sinh năm: 1993.
Trú tại: 32 N, phường H, thành phố p, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
2. Chị Hồ Thị Tuyết T, sinh năm: 1988.
Trú tại: Làng K, xã I, huyện I, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
a. Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Từ đầu năm 2018 đến tháng 5 năm 2019, Phùng Ngọc H đã có 02 lần thực hiện hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của Công ty Tài chính TNHH Một thành viên Home Credit Việt Nam có 100% vốn nước ngoài (Công ty Home Credit) với tổng số tiền 34.317.000đồng (ba mươi tư triệu ba trăm mười bảy nghìn đồng); 01 lần “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của anh Nguyễn Thành T 01 chiếc xe máy trị giá 25.000. 000đồng (hai mươi lăm triệu đồng) và thực hiện hành vi “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng số tiền mà H đã lừa đảo chiếm đoạt là 59.317.000 đồng (năm mươi chín triệu ba trăm mười bảy nghìn đồng). Cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Phùng Ngọc H đã lén lấy giấy chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe của Trương Minh H (là anh vợ của H, đã chết ngày 04/10/2015) do bà Trần Thị C (mẹ của H) để trên bàn thờ, nhằm mục đích đi lừa các công ty tài chính theo hợp đồng trả góp, mua hàng điện tử. Ngày 03/01/2018, H đến chi nhánh Công ty cổ phần thế giới di động tại 47 T, thành phố P, tỉnh Gia Lai, H mua một chiếc điện thoại di động Iphone X Silver 64G với giá 29.900.000 đồng (hai mươi chín triệu chín trăm nghìn đồng), H trả cho Công ty cổ phần thế giới di động 14.995.000 đồng (mười bốn hiệu chín trăm chín lăm nghìn đồng), còn lại H sử dụng giấy chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe của Trương Minh H để ký kết hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số: 3800042528 với công ty Home Credit, đứng tên là Trương Minh H vay số tiền 15.596.000đồng, với lãi suất 4,17%/tháng, trả góp hàng tháng, trong thời hạn 08 tháng, để trả tiền mua điện thoại cho Công ty cổ phần thế giới di động. Sau khi mua được điện thoại H lại đem bán chiếc điện thoại đó cho người khác với giá 23.000. 000đồng (hai mươi ba triệu đồng) để lấy tiền tiêu xài cá nhân mà không trả tiền cho công ty Home Credit như đã ký kêt trong hợp đồng. Còn giấy chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe của Trương Minh H, khi bà C phát hiện bị mất có hỏi H thì H đã trả lại cho bà C.
Vụ thứ hai: Vào tháng 6/2018 Phùng Ngọc H đến nhà Trần Văn D, trú tại thôn M, xã I, huyện Đ, Gia Lai chơi, lợi dụng lúc nhà D không có ai ở nhà H đã lén lấy giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của D để nhằm mục đích đi lừa đảo như lần trước. Sau khi lấy được giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của D, H mang về cắt ghép ảnh của H thay vào ảnh của D trong giấy chứng minh nhân dân của D. Đến ngày 14/6/2018, H đến cửa hàng Viettel tại số 01 N, TP.P, Gia Lai mua điện thoại di động Iphone X Silver 64GB với giá 29.990.000 đồng (hai mươi chín hiệu chín trăm chín mươi nghìn đồng), H trả cho cửa hàng Viettel 11.996.000 đồng (mười một triệu chín trăm chín sáu nghìn đồng), còn lại H sử dụng giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Văn D mà H đã dán ảnh của H và sổ hộ khẩu của Trần Văn D để ký kết hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số 3802554567 với công ty HomeCredit, đứng tên Trần Văn D vay số tiền 18.721.000 đồng (mười tám triệu bảy trăm hai mươi mốt nghìn đồng) với lãi suất 4,11%/tháng, trả góp hàng tháng, trong thời hạn 8 tháng, để trả tiền mua điện thoại cho cửa hàng Viettel. Sau khi mua được điện thoại H lại đem bán chiếc điện thoại đó cho người khác với giá 20.000.000đồng (hai mươi triệu đồng) để lấy tiền tiêu xài cá nhân mà không trả tiền cho công ty Home Credit như đã ký kết trong hợp đồng. Còn giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của Trần Văn D thì H mang về để lại vị trí cũ, trả lại cho D.
Vụ thứ ba: Tháng 5/2019, Phùng Ngọc H vào làm nhân viên Công ty bảo vệ Nam Chính Trực tại phường 1, quận P, TP.Hồ Chí Minh, H làm và ở cùng phòng với Nguyễn Thành T tại số 416/3A P, phường 1, quận P, TP.Hồ Chí Minh. Trong quá trình làm và ở cùng với nhau, H đã 02 lần mượn xe máy hiệu Honda Winner, BKS 78E1-405.80 của T đi công việc rồi về trả lại cho T. Sau đó H nảy sinh ý định mượn chiếc xe máy hiệu Honda Winner, BKS 78E 1-405.80 của T rồi đem đi cầm cố, lấy tiền bỏ trốn, nên khoảng 07h00’ ngày 13/5/2019, H hỏi mượn chiếc xe máy của T để đi công việc, T tin tưởng nên đã lấy chiếc xe máy hiệu Honda Winner, BKS 78E1- 405.80 cho H mượn. Sau khi mượn được xe máy H đã mang đi cầm cố cho tiệm cầm đồ ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (không nhớ địa chỉ) với số tiền 10.000.000 đồng rồi bỏ trốn đi nơi khác.
Qua theo dõi thấy hợp đồng tín dụng tiêu dừng trả góp số 3800042528 đứng tên Trương Minh H và hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số 3802554567 đứng tên Trần Văn D đã quá hạn mà không trả tiền gốc và tiền lãi cho công ty Home Credit, nhân viên an ninh của công ty Home Credit đã kiểm tra phát hiện đã bị Phùng Ngọc H lừa đảo nên làm đơn tố giác đề nghị xử lý đối với Phùng Ngọc H.
Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định và yêu cầu định giá tài sản.
Tại Kết luận giám định số 91/KLGĐ ngày 07/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: Chữ ký “H” Chữ viết “Trương Minh H” trên mẫu cần giám định (Ký hiệu A1 đến A4 - Hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số: 3800042528 ngày 03/01/2018) so với chữ ký, chữ viết của “Phùng Ngọc H” trên các mẫu so sánh là do cùng một người ký và viết ra. (BL 99,100: Kết luận giám định.)
Tại Kết luận giám định số 297/KLGĐ ngày 03/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: Chữ viết “Trần Văn D” trên tài liệu cần giám định (Ký hiệu A1 đến A4 - Hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp số: 3802554567 ngày 14/06/2018) so với chữ viết của “Phùng Ngọc H” trên các mẫu so sánh là do cùng một người viết ra.
Qua định giá Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận P kết luận: Xe máy Honda Winner BS: 78E 1-405.80 mà H đã lừa đảo chiếm đoạt của T có giá trị 25.000.000đồng.
Khi tiến hành làm thủ tục ký kết hợp đồng, chị Hồ Thị Tuyết T và anh Nguyễn Hữu P là nhân viên kinh doanh của Công ty Home Credit đã chủ quan, chỉ xem giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe, sổ hộ khẩu thấy phù hợp nên đã tiến hành dùng Webcam của Công ty Home Credit trực tiếp chụp ảnh khách hàng (Phùng Ngọc H) để làm thủ tục hợp đồng cho vay mang tên Trương Minh H và Trần Văn D, những người này không biết Phùng Ngọc H đã gian dối dùng các giấy tờ đó để lừa nhằm chiếm đoạt số tiền vay.
Ngày 01/3/2019, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Gia Lai ra Quyết định khởi tố vụ án, ngày 14/3/2019 ra Quyết định khởi tố bị can đối với Phùng Ngọc H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Trong quá trình điều tra, H đã bỏ trốn khỏi địa phương nên Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Gia Lai đã ra Quyết định truy nã số 05/QĐTN- PC01 ngày 04/5/2019 đối với Phùng Ngọc H. Ngày 07/8/2019, Phùng Ngọc H bị Cơ quan CSĐT Công an thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc bắt giữ.
Ngày 22/10/2019, Cơ quan CSĐT Công an quận P, TP.Hồ Chí Minh ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phùng Ngọc H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Ngày 04/11/2019, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Gia Lai ra Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố vụ án, Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố bị can đối với Phùng Ngọc H về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
Ngày 02/12/2019, Cơ quan CSĐT Công an quận P, TP.Hồ Chí Minh chuyển vụ án Phùng Ngọc H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại quận P, TP.Hồ Chí Minh đến Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Gia Lai để nhập vụ án.
Ngoài ra, ngày 13/5/2019, Phùng Ngọc H còn có hành vi lấy 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo Y91C của anh Nguyễn Thành T trong lúc Tâm đang ngũ, rồi mang đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Cơ quan CSĐT Công an quận P, TP.Hồ Chí Minh xác định đây là hành vi trộm cắp tài sản nhưng qua định giá Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận P kết luận: Chiếc điện thoại di động Vivo Y91C mà H lấy của T trị giá 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng), không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên đã chuyển cho Công an phường 1, quận P, TP.Hồ Chí Minh xử lý hành chính.
Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKS-P3 ngày 10 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã truy tố Phùng Ngọc H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức ” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
b. Về các vấn đề khác của vụ án:
* Về dân sự:
Bị cáo đã nhờ gia đình (ông Phùng Ngọc D - bố của bị cáo) bồi thường cho Công ty Home Credit 2.000.000 đồng. Đại diện theo ủy quyền của bị hại, ông Trịnh Minh Q yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền còn lại là 32.317.000 đồng (ba mươi hai triệu ba trăm mười bảy nghìn đồng) và tiền lãi suất theo quy định của pháp luật.
Anh Nguyễn Thành T yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại về chiếc xe máy và chiếc điện thoại theo quy định của pháp luật.
* Về vật chứng:
Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe mang tên Trương Minh H. Sau khi điều tra làm rõ hành vi của H và xác định đây là giấy tờ tùy thân thuộc quyền quản lý hợp pháp của gia đình Trương Minh H nên đã trả lại cho bà Trần Thị C - mẹ của Trương Minh H.
Đối với giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của Trần Văn D, do D đã đi khỏi địa phương, không biết đi đâu nên không thu giữ được.
Đối với chiếc xe máy hiệu Honda Winner, BKS 78E1-405.80 và chiếc điện thoại di động hiệu Vivo Y91C của anh Nguyễn Thành T mà H đã mang đi cầm cố, H không nhớ được địa điểm đã cầm cố nên không xác minh được. Cơ quan CSĐT Công an quận P, TP. Hô Chí Minh đã thông báo truy tìm nhưng cũng không có kết quả nên không thu giữ được.
2. Quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa:
- Ý kiến của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình như Cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến khiếu nại gì . Bị cáo hối hận về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai giữ nguyên quyết định truy tố:
* Về hình sự:
Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phùng Ngọc H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức ” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù; về tội: “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự; tổng hợp hình phạt của 2 tội buộc bị cáo phải chấp hành là từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 03 tháng tù.
* Về dân sự:
Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015; Buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho Công ty Tài chính THHH Một thành viên Home Credit số tiền 22.317.000 đồng và anh Nguyễn Thành T số tiền 16.200.000 đồng.
* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự về phần bồi thường.
- Ý kiến các bị hại: Ông Trịnh Minh Q trình bày ngày hôm nay, bị cáo Phùng Ngọc H đã tác động gia đình bồi thường thêm cho Công ty TNHH Home Credit 10.000.000 đồng, ông yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là 22.317.000 đồng và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Anh Nguyễn Thành T trình bày ngày hôm nay, bị cáo Phùng Ngọc H đã tác động gia đình bồi thường thêm cho anh 10.000.000 đồng, anh yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là 16.200.000 đồng và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Không có yêu cầu và không có ý kiến tranh luận gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Bị cáo Phùng Ngọc H khai nhận thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người liên quan, kết luận giám định về chữ viết, chữ ký của bị cáo, vật chứng thu giữ được và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó đủ cơ sở kết luận: Từ đầu năm 2018 đến tháng 5 năm 2019, Phùng Ngọc H đã có 2 lần thực hiện hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” của Công ty Tài chính TNHH Một thành viên Home Credit Việt Nam có 100% vốn nước ngoài (Công ty Home Credit) với tổng số tiền 34.317.000 đồng (ba mươi tư triệu ba trăm mười bảy nghìn đồng); 01 lần “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” của anh Nguyễn Thành T 01 chiếc xe máy trị giá 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng) và thực hiện hành vi “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức ”. Tổng số tiền mà H đã lừa đảo chiếm đoạt là 59.317.000 đồng (năm mươi chín triệu ba trăm mười bảy nghìn đồng). Với các hành vi phạm tội nêu trên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức ” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo thực hiện: Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả tài liệu của cơ quan tố chức của bị cáo là trái pháp luật, đã xâm phạm đến 2 khách thể là quyền sở hữu tài sản của công dân và trật tự quản lý hành chính Nhà nước, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo lừa đảo chiếm đoạt tài sản tổng cộng 03 lần, trong đó 02 lần đối với Công ty Home Credit và 01 lần đối với anh Nguyễn Thành T, nên phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên ” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo phải bị nghiêm trị theo pháp luật, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và công tác đấu tranh, phòng ngừa chung đối với tội phạm.
Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét đến việc tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tác động gia đình bồi thường thiệt hại trả lại 2.000.000 đồng; ngày hôm nay bị cáo tiếp tục tác động gia đình bồi thường cho Công ty TNHH một thành viên Home Credit 10.000.000 đồng, anh Nguyễn Thành T 10.000.000 đồng đã chiếm đoạt là 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; các bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; những tình này sẽ được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
- Về bồi thường dân sự: Người đại diện theo ủy quyền của người bị hại là ông Trịnh Minh Q có ý kiến buộc bị cáo bồi thường tiền đã chiếm đoạt. Người bị hại là anh Nguyễn Thành T có ý kiến buộc bị cáo phải trả lại trị giá chiếc xe máy và chiếc điện thoại. Xét yêu cầu này của các bị hại là có căn cứ, chính đáng nên chấp nhận, buộc bị cáo phải bồi thường số tiền đã chiếm đoạt cho người bị hại cụ thể như sau: Bồi thường cho Công ty Tài chính THHH Một thành viên Home Credit 22.317.000 đồng và bồi thường cho anh Nguyễn Thành T 16.200.000 đồng.
[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố bị cáo Phùng Ngọc H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù; về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo 06 tháng tù; về tội: “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
- Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự; tổng hợp hình phạt của 2 tội buộc bị cáo phải chấp hành là 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/8/2019.
[2] Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015, xử buộc bị cáo phải trả tiền đã chiếm đoạt cho các bị hại như sau:
Buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho Công ty Tài chính T NHH Một thành viên Home Credit số tiền 22.317.000 đồng và anh Nguyễn Thành T số tiền 16.200.000 đồng.
[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết so 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí lệ, phí Tòa án.
Buộc bị cáo Phùng Ngọc H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.925.850 đồng (Một triệu chín trăm hai mươi lăm nghìn tám trăm năm mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án theo Điều 357 Bộ luật dân sự 2015 quy định về trách nhiệm chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ Bản án ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm.
Bản án 15/2020/HS-ST ngày 11/05/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức
Số hiệu: | 15/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về