Bản án 15/2020/HS-ST ngày 06/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 06/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 06 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 09/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 03 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2020/HSST-QĐ ngày 07 tháng 4 năm 2020 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 16/2020/TB-TA ngày 21 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Vũ Xuân B ( tên gọi khác: Năm S, Vũ Văn N, Vũ Đức N), sinh ngày 26 tháng 9 năm 1980, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Tổ, Thị trấn A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Trọng S (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; chưa có vợ con; tiền án: Tại Bản án số 253/2002/HSST ngày 26 tháng 9 năm 2002 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 08 năm tù về tội Cướp tài sản, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 22 tháng 11 năm 2019; có mặt.

- Bị hại: Ông Vũ Xuân H, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn L, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; vắng mặt, có yêu cầu xin vắng mặt.

- Người làm chứng: Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H, Khúc Thị K; Tạ Hữu K, Đoàn Bá Đ vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 05 tháng 8 năm 2019, Lê Công V, sinh năm 1983, trú quán: thôn , xã B, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng điều khiển xe taxi chởVũ Xuân B đi vào đường chợ L, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng thì bị tắc đường. Thấy vậy, anh Vũ Xuân H, sinh năm 1972, trú quán: thôn L, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đi xe mô tô đến nhắc nhở V cho xe ô tô đi lên để tránh tắc đường. Sau đó, giữa V và anh H xảy ra cãi chửi nhau. Văn mở cửa ô tô xuống xe chạy ra bên đường nhặt 01 viên gạch chỉ dọa ném anh H nhưng không ném, không làm anh H bị thương. Sau đó, B mở cửa xe ô tô xuống và nhặt 01 viên gạch chỉ tiến về phía anh H nhưng chưa gây ra thương tích thì mọi người can ngăn. V thấy B và anh H đánh nhau nên vứt gạch lại, lên xe điều khiển xe ô tô lùi ra ngoài đường chính. Lúc này B chạy đến chỗ quầy bán cá gần đó của bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1963, trú quán: thôn , xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng nhặt 01 con dao phay làm cá của bà H rồi xông vào vung dao chém về phía anh H. Anh H dơ tay trái lên đỡ thì bị chém trúng mu bàn tay trái. Anh H bỏ chạy về phía thôn L thì bị hụt chân ngã, B đuổi kịp vung dao chém 01 nhát vào lưng bên phải anh H gây thương tích. Anh H tiếp tục đứng dậy bỏ chạy về phía trước, khi đang quay đầu lại nhìn thì B lại đuổi đằng sau chém 01 nhát nữa trúng vào thái dương trái gây thương tích. Sau đó, B chạy ra xe taxi của V ngoài đường rồi bỏ đi.

Ngay sau khi sự việc xảy ra, chị Nguyễn Thị H (vợ anh H) đến Công an xã A, huyện An Dương trình báo. Công an xã đã thu giữ con dao B sử dụng để gây thương tích cho anh H tại hiện trường.

Tại kết luận giám định thương tích số 513/2019/TgT ngày 16 tháng 10 năm 2019 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận thương tích của anh Hnhư sau:

“Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của vết thương vùng ngoài trán thái dương trái gây nên là 01%; tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của vết thương mu bàn tay trái đứt bán phần gân duỗi ngón III, IV gây nên là 04%; tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của vết thương lớn vùng dưới ngoài bả vai phải gây nên là 08%. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân do các thương tích trên gây nên là 13%. Các thương tích trên có đặc điểm do vật sắc hoặc tương đối sắc tác động trực tiếp theo hướng gần như vuông góc với bề mặt da nơi tổn thương gây nên”

Tại Cáo trạng số 11/CT-VKS-AD ngày 18 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Vũ Xuân B về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra và phiên toà bị cáoVũ Xuân B khai nhận: Giữa bị cáo và anh Vũ Xuân H không có mâu thuẫn gì. Do bực tức trước lời nói của anh  Hưng đối với lái xe taxi nên bị cáo đã dùng dao gây thương tích choanh H, không nhằm mục đích tước đi tính mạng củaanh H như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo xác định bản thân vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời khai của anh Vũ Xuân H, lời khai của bị hại và những người làm chứng do cơ quan điều tra thu thập phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội đối với bị cáo. Qua phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáoVũ Xuân B ( tên gọi khác: Năm S, Vũ Văn N, Vũ Đức N) từ 4 năm đến 4 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; các điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Vũ Xuân H số tiền 9.575.991đồng.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao phay bằng kim loại mầu đen, dài 35cm, bản rộng 08 cm, cán dao bằng kim loại dài 10 cm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về việc vắng mặt của bị hại và người làm chứng: Tại phiên tòa bị hại vắng mặt nhưng đã có quan điểm xin vắng mặt, người làm chứng vắng mặt. Xét thấy, tại giai đoạn điều tra, bị hại và người làm chứng đã được Cơ quan điều tra lấy lời khai theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên việc vắng mặt của bị hại và người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử bị cáo tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị hại và người làm chứng theo quy định tại khoản 1 Điều 292; khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

- Về tội danh:

[3] Về các chứng cứ xác định có tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm  chứng, phù hợp với bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 513/2019/TgT ngày 16 tháng 10 năm 2019 của Trung tâm pháp y Hải Phòng, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ xác định vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 05 tháng 8 năm 2019 tại Thôn Lê Lác, xã An Hồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng bị cáoVũ Xuân B đã có hành vi dùng dao gây thương tích cho anh Vũ Xuân H. Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội Cố ý gây thương tích là có cơ sở. Căn cứ vào lời khai bị cáo, bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập, Hội đồng xét xử kết luận bị cáoVũ Xuân B phạm tội  “ Cố ý gây thương tích ”, tội phạm được quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của bị hại được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự xã hội, gây dư luận xấu ở địa phương. Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là ngưởi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, phạm tội với lỗi cố ý nên hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt một mức án nhất định tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết định khung hình phạt:

[5] Giữa bị cáo vàanh H không có mâu thuẫn từ trước, vì bực tức trước lời nói củaanh H nên bị cáo đã dùng dao gây thương tích choanh H. Do vậy, hành vi của bị cáo đã vi phạm tình tiết định khung “ Dùng hung khí nguy hiểm” và “ Có tính chất côn đồ” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Tại kết luận giám định thương tích số 513/2019/TgT ngày 16 tháng 10 năm 2019 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể củaanh H do các thương tích trên gây nên là 13% nên áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng là đúng quy định của pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên về nhân thân bị cáo có 01 tiền án tại Bản án số 253/2002/HSST, ngày 26 tháng 9 năm 2002, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử 08 năm tù về tội Cướp tài sản Tính đến ngày phạm tội lần này tiền án trên đã được xóa. Ngoài ra, ngày 10 tháng 6 năm 2019,Vũ Xuân B bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội Cố ý gây thương tích, quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Ngày 22 tháng 11 năm 2019, Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng ra Quyết định đình chỉ vụ án do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố. Hành vi này của bị cáo B chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo mang tính côn đồ, hung hãn, coi thường pháp luật. Sau khi dùng dao chém bị hại vào tay mặc dù bị hại đã bỏ chạy, bị ngã nhưng bị cáo vẫn tiếp tục đuổi theo và chém vào lưng, thái dương bị hại. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị  cáo không có trách nhiệm gì với bị hại. Như vậy, bị cáo là người có nhân thân xấu cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[7] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi bị thương anh Vũ Xuân H được đưa đến Bệnh viện hữu nghị Việt Tiệp, thành phố Hải Phòng cấp cứu điều trị từ ngày 05 tháng 8 năm 2019 đến ngày 16 tháng 8 năm 2019. Quá trình giải quyết vụ ánanh H yêu cầu bị cáoVũ Xuân B phải bồi thường khoản tiền chi phí anh điều trị theo hóa đơn của bệnh viện là 9.575.991đồng, bị cáo chưa bồi thường choanh H. Ngoài khoản trênanh H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản tiền nào khác. Tại phiên tòa bị cáo chấp nhận yêu cầu bồi thường củaanh H. Do vậy, căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự; các điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáoVũ Xuân B phải bồi thường cho anh Vũ Xuân H số tiền chi phí điều trị 9.575.991đồng.

[9] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương, thành phố Hải Phòng có thu giữ 01 con dao phay bằng kim loại dài 35cm bản rộng 08cm, cán dao bằng kim loại dài 10cm hiện Cơ quan Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đang quản lý. Xét con dao là tài sản của bà Nguyễn Thị H, bà H có quan điểm không yêu cầu nhận lại và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với hành vi của Lê Công V: Mặc dù việc mâu thuẫn xuất phát từ V vớianh H, nhưng sau khi cầm gạch dọaanh H, Văn đã dừng lại và lên xe điều khiển xe ra chỗ khác, V không bàn bạc, không hô hoán và không tham gia vào việc gây thương tích choanh H nên không có căn cứ xác định V đồng phạm với B trong vụ án. Đối với hành vi Vdùng gạch dọa némanh H nhưng sự việc diễn ra trong thời gian rất ngắn, do đó chưa có cơ sở xác định hành vi của V gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên chưa đủ căn cứ xem xét trách nhiệm hình sự đối với Văn về hành vi gây rối trật tự công cộng. Công an huyện An Dương ra quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với Văn về hành vi trên là phù hợp.

[11] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Vũ Xuân B ( tên gọi khác: Năm S, Vũ Văn N, Vũ Đức N) 04 ( Bốn) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 22 tháng 11 năm 2019.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; các điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự buộc bị cáoVũ Xuân B ( tên gọi khác: Năm S, Vũ Văn N, Vũ Đức N) phải bồi thường chi phí điều trị thương tích cho anh Vũ Xuân H số tiền 9.575.991đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hánh án cho đến khi thi hành xong khoản tiền nêu trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao phay bằng kim loại mầu đen, dài 35cm, bản rộng 08 cm, cán dao bằng kim loại dài 10 cm.

( Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13 tháng 3 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương)

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình  sự  năm  2015;  Điều  6,  điểm  a  khoản  1  Điều  23  Nghị  quyết  số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016 bị cáo Vũ Xuân B (tên gọi khác: Năm S, Vũ Văn N, Vũ Đức N) phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm và 478.000đồng án phí dân sự sơ thẩm. Tổng số tiền án phí bị cáo phải nộp vào ngân sách Nhà nước 678.000đồng.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 06/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;