Bản án 151/2017/HSST ngày 15/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

 TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 151/2017/HSST NGÀY 15/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 08 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 125/2017/HSST ngày 18 tháng 07 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 160/2017/HSST- QĐXX ngày 31 tháng 07 năm 2017, đối với bị cáo:

Đỗ M ( tên gọi khác: không ), sinh năm 1991 tại tỉnh P; nơi đăng ký HKTT: Xã Đ, huyện T, tỉnh P; nơi ở: Số 126B/10/15 đường Đ, Phường 11, thành phố V, tỉnh V; nghề nghiệp:không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; con ông Đỗ Văn T và bà Ngô Thị L; vợ: Trịnh Thị H; tiền sự: không; tiền án: không; bị bắt tạm giữ ngày 12 tháng 05 năm 2017, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố V (có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Trịnh Thị H, sinh năm 1993, nơi cư trú: Số 1774/33D Đường 30/4, Phường 11, thành phố V, tỉnh V (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 12-05-2017, đối tượng nghiện Đỗ Đắc K gọi đến điện thoại di động số 0908360199 gặp Đỗ M hỏi mua 300.000đ ma túy tổng hợp (hàng đá). M đồng ý bán và hẹn địa điểm mua bán tại chung cư 18 tầng, khu đô thị C, phường 10, thành phố V. M điều khiển xe mô tô biển số 72K1- 408.42 đến điểm hẹn bán 01 gói ma túy tổng hợp cho K với giá 300.000đ thì bị các cơ quan chức năng bắt quả tang lúc 19 giờ 10 phút cùng ngày.

Thu giữ của M: 14 gói bên trong chứa chất kết tinh màu trắng, 300.000 đ (tiền vừa nhận của K), 01 điện thoại di động hiệu Nokia có số sim 0908360199, 01 điện thoại di động hiệu Samsung có số sim 0868000728, 01 xe mô tô biển số 72K1- 408.42. Thu của K: 01 gói bên trong chứa chất kết tinh màu trắng.Bản kết luận giám định số 104/GĐ - PC54 ngày 02-06-2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh V kết luận:

1. Chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 01 gói nylon hàn kín, niêm phong trong một phong bì màu trắng (số thứ tự 01), gửi đến giám định có trọng lượng 0,4547 gam, có Methamphetamine.

2. Chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 14 gói nylon hàn kín, niêm phong trong một phong bì màu trắng (số thứ tự 02), gửi đến giám định có trọng lượng là 6,2007 gam, có Methamphetamine.

Bản cáo trạng số 133/CT-VKS ngày 12-07-2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố Đỗ M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy ” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi bị cáo Đỗ M thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy ”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 BLHS năm 1999 xử phạt bị cáo mức án từ 07 đến 08 năm tù.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát, công nhận Viện kiêm sát truy tố đúng tội danh ; bị cáo không có ý kiến gì tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần mức án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Tại phiên tòa bị cáo xác định chất ma túy tổng hợp có tổng khối lượng 6,6554 gam có Methamphetamine là của bị cáo mua của người tên H không rõ lai lịch ở khu vực cầu B, thành phố H với mục đích để sử dụng và bán cho các đối tượng nghiện. Bị cáo đã năm lần bán ma túy cho Đỗ Đắc K. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và lời khai của Đỗ Đắc K, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác đã được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập trong hồ sơ vụ án và thẩm tra lại tại phiên tòa. Hành vi bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “ Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

So sánh thấy tội “ Mua bán trái phép chất ma tuý ” theo Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 và tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về hình phạt đều như nhau, không quy định có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, HĐXX quyết định vẫn áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 để quyết định trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

 [3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra là rất nguy hiêm cho xã h ội; là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh tại địa phương. Vì vậy, cân xử phạt bị cáo mức án nghiêm theo quy định pháp luật, nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

 [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khân khai báo , ăn năn hôi c ải; tự thú về hành vi phạm tội trước đó. Bị cáo có ông nội là liệt sỹ đã hy sinh vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Nên xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

 [5] Về xử lý vật chứng:

- 02 gói ma túy niêm phong số 104/1, 104/2- GĐ/PC54 ngày 02-06-2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh V là chất nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia (kèm sim) bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, nên tịch thu sung quỹ nhà nước;

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung (kèm sim ) là tài sản hợp pháp của bị cáo, không có chứng cứ chứng minh liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo;

- 01 xe mô tô biển số 72K1- 408.42 là tài sản thuộc quyền sử dụng hợp pháp của chị Trịnh Thị H (vợ bị cáo ), chị H không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho chị H. Tại phiên tòa chị H không yêu cầu gì thêm, nên HĐXX không xem xét;

- Số tiền 300.000 đ là tài sản do phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

 [6] Về án phí : Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bô: Bị cáo Đỗ M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý ”.

2. Áp dụng : Điểm b khoản 2 Điều 194; điêm o, p khoản 1, khoản 2 Điêu 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Xử phạt Đỗ M 07 ( bảy ) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 05 năm 2017.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;

- Tịch thu tiêu hủy 02 gói ma túy niêm phong số 104/1, 104/2- GĐ/PC54 ngày 02-06-2017;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước : 01 điện thoại di động hiệu Nokia (kèm sim) và số tiền 300.000 đ ( ba trăm ngàn đồng );

- Trả lại Đỗ M 01 điện thoại di động hiệu Samsung (kèm sim).

Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng số: 140/BB.THA ngày 14-07-2017 và Biên lai thu tiền số 0008242 ngày 14-07-2017.

4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng ( hai trăm ngàn đông ) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 151/2017/HSST ngày 15/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:151/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;