Bản án 150/2023/DS-ST về tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 150/2023/DS-ST NGÀY 23/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CẦM CỐ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 23 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 413/2022/TLST-DS ngày 6 tháng 12 năm 2022 về việc tranh chấp “Hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 339/2023/QĐXXST-DS, ngày 05 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Thúy A, sinh năm 1983. Cư trú ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang. Có mặt.

2. Bị đơn: Bà Phạm Thị Thu B, sinh năm 1956. Cư trú ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang. Vắng mặt.

Địa chỉ liên lạc: ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Phạm Hoàng T, SN 1978. Vắng mặt.

- Bà Cao Kim N, SN 1979. Vắng mặt.

- Bà Phạm Thị Tl, SN 1982. Vắng mặt.

Cùng cư trú ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang. Địa chỉ liên lạc: ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai và các biên bản hòa giải, nguyên đơn bà Phan Thị Thúy A1 trình bày: Vào năm 2016 có thỏa thuận cầm cố của bà Thu B và các con là ông T, bà N, bà T1 phần đất diện tích 2.592m2 tại xã B với số tiền 350.000.000đ thời gian là 3 năm kể từ ngày 02/8/2016 đến ngày 02/8/2019 bà đã nhận đất canh tác và giao đủ số tiền trên đến nay đã hết hạn phía bà T2 Ba không chịu trả tiền. Nay yêu tòa án hủy hợp đồng cầm cố đất, yêu cầu bà Thu B và các con là ông T, bà N, bà T1 phải trả lại số tiền 350.000.000đ, bà sẽ trả lại đất, đối với các xây xoài trồng trên đất thì không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn bà Phạm Thị Thu B vắng mặt và cũng không gửi ý kiến trình bày.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Phạm Hoàng T trình bày gia đình ông có phần đất diện tích 2.592m2 đất tọa lạc tại xã B, huyện C, đất do mẹ là Phạm Thị Thu B đứng tên quyền sử dụng đất; vào ngày 02 tháng 8 năm 2016 mẹ ông và ông cùng với vợ ông là Cao Kim N và ông ruột tên Phạm Thị T1 có làm “Tờ giao kèo để cho mượn đất vườn đ canh tác” nội dung gia đình ông giao phần đất 2.592m2 cho bà A1 canh tác, bà A1 giao cho gia đình ông số tiền 350.000.000đ (ba trăm năm mươi triệu đồng); thời hạn là 3 năm; từ 3 năm trở lên nếu khi nào gia đình ông có tiền trả lại cho bà A1 thì bà A1 giao trả lại đất cho chúng tôi; khi đó chúng tôi có giao cho giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị An giữ. Nay bà A1 yêu cầu trả lại số tiền 350.000.000đ, phía bà A1 sẽ giao lại phần đất diện tích 2.592m2 ông không đồng ý vì lúc hai bên thỏa thuận từ 3 năm trở lên nếu khi nào gia ông có tiền trả lại cho bà A1 thì bà A1 giao trả lại đất cho chúng tôi, hiện nay chúng tôi chưa có khả năng trả lại tiền thì chị A1 cứ tiếp tục làm đất.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Cao Kim N, Nguyễn Thị T3 vắng mặt và cũng không gửi ý kiến trình bày.

Đại diện Viện kim sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biu: Ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Xét Tờ giao kèo để cho mượn đất vườn đề canh tác ngày 02/8/2016 có nội dung Thu B và các con là ông T, bà N, bà T3 giao cho bà A1 phần đất diện tích 2.592m2 để canh tác; bà A1 giao lại Thu B và các con là ông T, bà N, bà T3 số tiền 350.000.000đ, thời hạn là 3 năm. Phía ông T không thừa nhận cầm cố đất. Tuy các đương sự không thừa nhận cầm cố đất nhưng đây là giao dịch tự phát trong nhân dân không được pháp luật thừa nhận. Căn cứ Điều 131 Bộ luật dân sự đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố hủy hợp đồng cầm cố đất ngày 02/8/2016 giữa bà Phạm Thị Thúy A với bà Phạm Thị Thu B, ông Phạm Hoàng T, bà Cao Kim N, bà Phạm Thị T1 là vô hiệu.

Buộc bà Phạm Thị Thu B, ông Phạm Hoàng T, bà Cao Kim N, bà Phạm Thị T1 có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Phạm Thị Thúy A số tiền 350.000.000 (ba trăm năm mươi triệu) đồng.

Buộc bà Phạm Thị Thúy A có nghĩa vụ trả cho bà Phạm Thị Thu B, ông Phạm Hoàng T, bà Cao Kim N, bà Phạm Thị T1 phần đất diện tích 2592m2 (đo thực tế là 2.758m2).

Buộc bà Phạm Thị Thúy A có nghĩa vụ trả cho bà Phạm Thị Thu B bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01354 QSDĐ/iB do Ủy ban nhân dân huyện c cấp ngày 14/12/1993.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn khởi kiện bị đơn có nơi cư trú tại xã B, huyện C, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Tòa án đã thực hiện các thủ tục tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do. Do đó Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt là phù hợp với Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

Nguyên đơn yêu cầu hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất diện tích 2.592m2 tại xã B với bà Thu B và các con là ông T, bà N, bà T1 và yêu cầu trả số tiền 350.000.00đ.

Tòa án kết hợp với các cơ quan chuyên môn tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá phần đất cầm cố tọa lạc tại xã B. Theo Sơ đồ hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai Chi nhánh C đo vẽ ngày 15/4/2023 có diện tích 2.758m2 (tại các điểm 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7) thuộc thửa 921, tờ bản đồ số 02 tăng 166m2 do bà Phạm Thị Thu B đứng tên quyền sử dụng đất số 01354 QSDĐ/iB được Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 14/12/1993. Đất hiện do bà A đang trồng 236 cây xoài Đài Loan.

Phần đất mà bà A cầm cố của bà Thu B và các con là ông T, bà N, bà T1 ngày 02 tháng 8 năm 2016 diện tích 2592m2 (đo thực tế là 2.758m2) với số tiền 350.000.000đ thời hạn là 3 năm kể từ ngày 02/8/2016 đến ngày 02/8/2019 có làm Tờ giao kèo để cho mượn đất vườn đế canh tác. Xét thấy “Tờ giao kèo để cho mượn đất vườn để canh tác” nhưng nội dung giữa hai bên thỏa thuận cố đất với nhau cụ thể bà T2 Ba và các con giao phần đất diện tích 2.592m2 đo đạc thực tế diện tích 2.758m2 cho bà A canh tác và bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01354 QSDĐ/iB do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 14/12/1993 cho bà Phạm Thị Thu B; phía bà A giao cho bà T2 Ba và gia đình số tiền 350.000.000đ; thời hạn là 3 năm đây là thỏa thuận cầm cố đất giữa các bên theo tập quán tại địa phương chứ không phải là hợp đồng mượn đất. Thấy rằng, thỏa thuận cầm cố đất là trái với quy định tại Điều 167 Luật đất đai năm 2013 vì trong các quyền thì Nhà nước hạn chế quyền cầm cố quyền sử dụng đất do đó giao dịch giữa các bên là vô hiệu. Căn cứ Điều 122; Điều 123; Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 nghĩ nên tuyên bố hợp đồng cầm cố đất ngày 02/8/2016 giữa bà A với bà Thu B, ông T, bà N, bà T1 là vô hiệu. Do hợp đồng cầm cố bị vô hiệu nên tài sản của ai trả lại cho người đó, vì vậy bà Thu B, ông T, bà N, bà T1 phải có nghĩa vụ trả cho bà A số tiền 350.000.000đ. Bà A có nghĩa vụ trả lại cho bà Thu B, ông T, bà N, bà T1 diện tích 2.592m2 do đạc thực tế diện tích 2.758m2 và bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01354 QSDĐ/iB do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 14/12/1993 cho bà Phạm Thị Thu B.

Đối với các cây xoài do bà A trồng trên đất bà A không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

Về chi phí tố tụng: chi phí đo đạc 2.509.200đ (bà A tạm nộp) nguyên đơn tự nguyện chịu.

Án phí DSST: Bị đơn phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 122; Điều 123; Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 167; 168 Luật đất đai năm 2013; Điều 26; 35; 39; 144; 147; 227, 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị Thúy A.

Tuyên bố hợp đồng cầm cố đất ngày 02 tháng 8 năm 2016 diện tích 2592m2 (đo thực tế là 2.758m2) giữa bà Phạm Thị Thúy A với bà Phạm Thị Thu B, ông Phạm Hoàng T, bà Cao Kim N, bà Phạm Thị T1 là vô hiệu.

Buộc bà Phạm Thị Thu B, ông Phạm Hoàng T, bà Cao Kim N, bà Phạm Thị T1 có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Phạm Thị Thúy A số tiền 350.000.000 (ba trăm năm mươi triệu) đồng.

Buộc bà Phạm Thị Thúy A có nghĩa vụ trả cho bà Phạm Thị Thu B, ông Phạm Hoàng T, bà Cao Kim N, bà Phạm Thị T1 phần đất diện tích 2592m2 (đo thực tế là 2.758m2) tại các điểm 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 theo sơ đồ hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Chợ Mới đất lập ngày 15/4/2023 tọa lạc tại xã B, huyện C, tỉnh An Giang, thuộc thửa 921, tờ bản đồ số 02 do bà Phạm Thị Thu B đứng tên quyền sử dụng đất số 01354 QSDĐ/iB do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 14/12/1993.

Buộc bà Phạm Thị Thúy A có nghĩa vụ trả cho bà Phạm Thị Thu B bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01354 QSDĐ/iB do Ủy ban nhân dân huyện c cấp ngày 14/12/1993.

(Bản trích đo hiện trạng khi đất của Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh C ngày 15/4/2023 là một phần không thể tách rời bản án).

Chi phí tố tụng: 2.509.200đ bà Phạm Thị Thúy A tự nguyện chịu đã nộp xong.

Án phí dân sự sơ thẩm: bà Phạm Thị Thu B, ông Phạm Hoàng T, bà Cao Kim N, bà Phạm Thị T1 phải chịu là 17.500.000đ.

Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới hoàn lại tiền tạm nộp án phí cho bà Phạm Thị Thúy A số tiền 9.050.000đ theo biên lai số 0013017 ngày 6/12/2022.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 150/2023/DS-ST về tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất

Số hiệu:150/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;