Bản án 148/2020/HS-PT ngày 10/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 148/2020/HS-PT NGÀY 10/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 10/3/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 64/2020/HSPT ngày 09/01/2019 đối với bị cáo Viêu Văn H, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 699/2020/QĐXXPT-HS ngày 18/02/2020, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 182/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Viêu Văn H; giới tính: nam; sinh ngày 23/4/1994 tỉnh K; nơi đăng ký thường trú: 7/6 đường Tăng Bạt H, phường T, thành phố K, tỉnh K; nơi cư trú: 06 đường Lâm Văn B, phường T, Quận 7, Thành phố H; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: (không); con ông Viêu Văn H và bà Nguyễn Thị H; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: (không); Bắt tạm giam: 26/8/2019; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 26/8/2019, ở khu vực giao lộ Nguyễn Thái H – Lê Thị Hồng G, phường C, Quận C, Thành phố H, Tổ tuần tra Công an Quận C phát hiện Viêu Văn H đang điều khiển xe mô tô đi trên đường nhưng có nhiều biểu hiện nghi vấn liên qua đến ma túy nên đã ra tín hiệu dừng xe để kiểm tra. Qua tiến hành kiểm tra, lực lượng công an phát hiện: Trong túi xách H đang đeo trên người có 01 túi nylon có in chữ “khẩu trang Face Mask”, bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu và 01 gói nylon chứa 10 viên nén tròn màu cam (H khai là ma túy). Lực lượng ông an đã bắt giữ H đưa đến Công an phường C, Quận C lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, rồi chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận C xử lý theo thẩm quyền.

Theo kết luận giám định số 1669/KLGĐ-H ngày 04/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H, xác định được như sau:

-10 viên nén màu cam trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,7438 gam, loại MDMA.

-Tinh thể không màu trong 02 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1164 gam, loại Ketamine.

Trong quá trình điều tra, H khai nhận như sau: Ngày 24/8/2019, A (không rõ lai lịch) nhờ H mua giúp ma túy để tổ chức sinh nhật. H đồng ý và đi đến khu vực được Phạm H, Quận B mua 02 gói nylon chứa Ketamine và 10 viên nén ma túy tổng hợp của đối tượng tên Q (không rõ lai lịch). Sau đó, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47D1-314.53 đến địa điểm tổ chức sinh nhật của A, khi đi đến khu vực giao lộ Nguyễn Thái H – Lê Thị Hồng G, phường C, Quận C thì bị Công an bắt giữ.

Tại cáo trạng số 174/CT-VKSQ1 ngày 13/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận C đã truy tố bị cáo Viêu Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật hình sự).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 182/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận C, Thành phố H đã quyết định như sau:

Tuyên bố bị cáo Viêu Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Viêu Văn H 3 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày 26/8/2019. Phạt bổ sung 5.000.000đ;

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng, quyền kháng cáo của bị cáo và các đương sự.

Ngày 06/12/2019, bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung: Bị cáo là trụ cột chính trong gia đình phải nuôi em nhỏ đi học, cha mẹ sức khỏe yếu. Do vậy, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố H xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật.

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ.

Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng khoản 2 Điều 51 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có thiếu sót. Tuy nhiên, hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng. Do vậy, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2].Căn cứ lời khai của bị cáo, người liên quan, căn cứ vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác, có cơ sở để xác định:

Bị cáo đã có hành vi cất giữ trái phép 4,8602g ma túy ở thể rắn (gồm 3,7438g MDMA và 1,1164g Ketamine) và đã bị lực lượng công an bắt quả tang vào ngày 26/8/2019, ở khu vực giao lộ Nguyễn Thái H – Lê Thị Hồng G, phường C, Quận C, Thành phố H.

Bị cáo khai rằng số ma túy đã nêu bị cáo mua giúp A để tổ chức sinh nhật. Tuy nhiên, không xác định được lai lịch của A nên cũng không có căn cứ để xác định mục đích thật sự của A mua ma túy để làm gì. Do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi tàng trữ trái phép khối lượng ma túy đã nêu.

Ma túy là chất gây nghiện độc hại. Việc sử dụng ma túy không chỉ gây thiệt hại về vật chất cho gia đình và xã hội mà còn tổn hại đến chính sức khỏe của người sử dụng. Người thường xuyên sử dụng ma túy sẽ bị rối loạn nhân cách, không làm chủ được bản thân; mặt khác, người sử dụng ma túy thường bất chấp mọi hành vi, thủ đoạn để có được ma túy sử dụng, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Chính vì vậy, Nhà nước ta nghiêm cấp việc việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán…trái phép chất ma túy. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai trái, bị luật pháp nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý vi phạm.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia; xâm phạm đến hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.

Đối chiếu với quy định của pháp luật, có đủ căn cứ kết luận bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo theo tội danh, điều luật như đã vừa nêu là đúng pháp luật.

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ.

[3].Về kháng cáo của bị cáo:

Bị cáo bào chữa cho rằng: Bị cáo là trụ cột chính trong gia đình phải nuôi em nhỏ đi học, cha mẹ sức khỏe yếu nhưng không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh. Mặt khác, bị cáo là người không có nghề nghiệp nên không thể là trụ cột trong gia đình. Vì các lý do đã nêu, không có căn cứ để chấp nhận nội dung bào chữa của bị cáo.

Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ đó là: Phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tuy nhiên, khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ có khối lượng lớn so với khối lượng ma túy quy định là tình tiết định khung tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (gần bằng với khối lượng quy định là tình tiết định khung tại khoản 2 Điều 249). Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng. Vì các lý do đã nêu, cần giữ y án sơ thẩm.

[4].Về án phí: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

1.Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Viêu Văn H, giữ nguyên bản án sơ thẩm 182/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận C, Thành phố H.

Tuyên bố bị cáo Viêu Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Viêu Văn H 3 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 26/8/2019;

Phạt bổ sung 5.000.000đ (năm triệu đồng).

2.Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3.Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 148/2020/HS-PT ngày 10/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:148/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;