TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 654/2019/HSPT NGÀY 24/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nam Định, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 487/2019/TLPT-HS ngày 28 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo Trịnh Quốc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định.
- Bị cáo có kháng cáo:
Trịnh Quốc H, sinh năm 1975; nơi cư trú: 4/52 đường A, phường V, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; con ông Trịnh Q và bà Đinh Thị Y; vợ, con: Theo bị cáo khai có quan hệ chung sống như vợ chồng với ba người và có hai con chung nhưng không có giấy tờ đăng ký kết hôn, giấy khai sinh của con. Hiện tại có 01 cháu tên là Trần T A, bị bệnh tự kỷ, đang được H nuôi dưỡng (đã bàn giao cháu cho gia đình nuôi dưỡng sau khi Trịnh Quốc H bị bắt); tiền sự: Không; tiền án: Ngày 13/12/2013, Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 4 năm 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”; ra trại ngày 03/5/2017 (chưa được xóa án tích);
Nhân thân: Ngày 04/8/2009, Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xử phạt 20 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 26/12/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định, có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Hoàng Thị Minh D - Công ty luật trách nhiệm hữu hạn T, Đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Khoảng 22h ngày 26/12/2018, tổ công tác của Đội Cảnh sát 113, Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội , Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực ngã tư đường Trần Huy Liệu – Giải Phóng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định phát hiện một nam thanh niên đi xe máy nhãn hiệu Airblade BKS 18B2-133.xx vi phạm luật giao thông đường bộ (vượt đèn đỏ). Tổ công tác đã ra tín hiệu dừng xe, tuy nhiên nam thanh niên vẫn tiếp tục điều khiển xe máy theo hướng ngã tư đường Giải Phóng – Trần Huy Liệu đi về bến xe cũ (đường Điện Biên), đi đến khu vực ngã ba đường Giải Phóng – Xuân Trình thuộc phường Trường Thi, thành phố Nam Định, thì tổ công tác tiếp cận và tiến hành kiểm tra, nam thanh niên khai tên l à Trịnh Quốc H, sinh năm 1975, trú tại: 4/52 đường A, phường V, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Trong lúc kiểm tra, tổ công tác đã phát hiện Trịnh Quốc H có nhiều biểu hiện nghi vấn nên đã mời người chứng kiến tiến hành kiểm tra người H thì phát hiện và thu giữ ở trong túi áo khoác bên phải H đang mặc có 02 túi nylon màu trắng, bao gồm:
+ 01 túi có kích thước khoảng 5x8 (cm) bên trong đựng 47 viên nén hình trái tim màu hồng, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: H1
+ 01 túi có kích thước khoảng 4x7 (cm) bên trong có đựng 50 viên nén hình tròn màu cam nhạt, trên bề mặt có in hình chữ WL lồng vào nhau, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: H2 H khai nhận đó là 02 túi ma túy (thuốc lắc) của H. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng theo quy định, đưa H và mời người làm chứng về trụ sở Công an tỉnh Nam Định để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại trụ sở Công an tỉnh Nam Định, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra xe máy của Trịnh Quốc H, phát hiện và thu giữ ở trong hộp nắp bình xăng trên thân xe có:
+ 01 túi nylon màu trắng kích thước khoảng 5x9 (cm) bên trong có đựng 11 gói nhỏ nylon màu trắng, bên trong mỗi gói nylon đều có đựng chất rắn dạng tinh thể màu trắng, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: M + 01 túi nylon màu trắng có kích thước khoảng 6x9 (cm) bên trong có đựng 50 viên nén hình thang kẻ sọc màu hồng, ở giữa trên bề mặt có hình mặt người, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: M 1 + 01 túi nylon màu trắng có kích thước khoảng 5x8 (cm) bên trong có đựng 50 viên nén màu cam hình tròn, trên bề mặt có in chữ VL lồng vào nhau, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: M2 + 01 túi nylon màu trắng có kích thước khoảng 5x8 (cm), bên trong có đựng 50 viên nén hình tròn màu xanh, trên bề mặt có in hình vương miện, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: M3 + 01 túi nylon màu trắng kích thước khoảng 6x8 (cm), bên trong có đựng 20 viên nén hình chữ nhật màu xám, trên bề mặt trước có in chữ LASTLONCSR, bề mặt sau có in chữ MDMAPOWER, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: M4 + 01 túi nylon màu trắng có kích thước khoảng 5x8 (cm), bên trong có đựng 20 viên nén màu cam hình tròn kẻ sọc ở giữa, trên bề mặt có in chữ VL lồng vào nhau và 30 viên nén màu xanh hình tròn kẻ sọc ở giữa, trên bề mặt có in chữ VL lồng vào nhau, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: M5 + 01 túi nylon màu trắng có kích thước khoảng 4x7 (cm), bên trong có đựng chất rắn tinh thể màu trắng, được niê m phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: M6 + 01 túi nylon màu trắng có kích thước khoảng 4x7 (cm), bên trong có đựng chất rắn tinh thể màu trắng, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: M7 + 01 túi nylon màu trắng kích thước khoảng 4x7 (cm) bên trong có đựng chất bột màu trắng, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: M8 Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của H 05 điện thoại di động, 01 máy iPad, 01 chứng minh nhân dân mang tên Trịnh Quốc H, 01 đăng ký xe máy mang tên Trịnh Quốc H, 178 (Một trăm bảy mươi tám) tờ tiền Việt Nam mệnh giá 500.000 đồng, 01 xe máy nhãn hiệu Airblade BKS 18B2-133.xx (BL 30-38).
Sau khi hoàn thiện hồ sơ ban đầu vụ việc, Đội Cảnh sát 113, Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Công an tỉnh Nam Định đã chuyển toàn bộ hồ sơ, đồ vật thu giữ, tạm giữ và đối tượng Trịnh Quốc H cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nam Định (Phòng CSĐT tội phạm về ma túy). Sau khi tiếp nhận người, vật chứng, Cơ quan CSĐT ra Lệnh khám xét khẩn cấp và tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trịnh Quốc H tại 4/52 A, phường V, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nam Định đã phát hiện và thu giữ trong hốc tủ nhựa trong phòng ngủ tầng 2 của Trịnh Quốc H những vật chứng, đồ vật sau (BL 05, 47-48):
- 01 hộp giấy màu đen, kích thước khoảng 15x15x10 (cm), trên bề mặt hộp có ghi chữ Black Berry, bên trong có:
+ 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 20x15 (cm), bên trong có chứa chất bột màu trắng, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: N1 + 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 10x10 (cm), bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: N2 + 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 4x7 (cm), bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: N3 + 03 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 3x5 (cm), bên trong mỗi túi đều chứa chất bột màu trắng, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: N4 + 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 4x7 (cm), bên trong có chứa chất bột màu trắng xám, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: N5 - 01 hộp giấy màu đỏ, kích thước khoảng 20x20x10 (cm), bên trong có:
+ 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 15x10 (cm), bên trong có chứa chất rắn tinh thể màu trắng, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: N6 + 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 15x10 (cm), bên trong có chứa 90 viên nén hình tròn màu hồng nhạt, bề mặt trước có in hình hoa văn, bề mặt sau có kẻ sọc giữa, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: N7 + 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 15x20 (cm), bên trong có chứa 190 viên nén hình tròn màu xanh cốm, bề mặt trước có in hình vương miện, bề mặt sau có in chữ Rolex, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: N8 + 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 10x5 (cm), bên trong có chứa 130 viên nén hình lục lăng màu xanh dương, bề mặt trước có in hình hoa văn, bề mặt sau có kẻ sọc giữa, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: N9 + 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 10x5 (cm), bên trong có chứa 100 viên nén hình thang màu hồng đậm, bề mặt trước có in hình mặt người, bề mặt sau có kẻ sọc giữa, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: N10 + 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 4x7 (cm), bên trong có chứa 25 viên nén hình tròn màu nâu, bề mặt trước có in chữ O, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: N11 + 01 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 20x15 (cm), bên trong có chứa 400 viên nén hình tròn màu cam, bề mặt trước có in chữ VL, bề mặt sau có kẻ sọc giữa, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là: N12 + 01 cân điện tử màu đen, kích thước khoảng 7x15 (cm), trên bề mặt có ghi chữ Pocket Scale;
+ 20 túi nylon màu trắng, kích thước khoảng 4x7 (cm);
+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá có vòi hút nhựa và 01 ống thủy tinh.
Tại các Bản kết luận giám định số 1210/GĐKTHS và số 1211/GĐKTHS cùng ngày 02/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận:
- Các mẫu thu giữ được niêm phong ký hiệu: H1, H2, M1, M2, M3, M4, M5, N7, N8, N10, N11, N12 gửi giám định đều là chất ma túy; Loại ma túy: MDMA, tổng khối lượng mẫu: 426,615 gam.
- Mẫu thu giữ được niêm phong ký hiệu: N6 gửi giám định là chất ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine, khối lượng mẫu: 39,744 gam.
- Mẫu thu giữ được niêm phong ký hiệu: M, M6, M7, M8, N1, N2, N3, N4, N5 gửi giám định đều là chất ma túy; Loại ma túy: Ketamine, tổng khối lượng mẫu: 186,592 gam.
- Mẫu thu giữ được niêm phong ký hiệu: N9 gửi giám định là chất ma túy; Loại ma túy: MDMA và Ketamine, tổng khối lượng mẫu: 45,419 gam (M ẫu N9 đã được Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nam Định ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung, trưng cầu Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an giám định bổ sung hàm lượng chất ma túy. Tại Bản kết luận giám định bổ sung số 65/C09-TT2 ngày 12/01/2019 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Hàm lượng MDMA trung bình và Ketamine trung bình trong mẫu ký hiệu N9 gửi giám định lần lượt là 17,0% và 2,3%) (BL 58,66,70).
Tại cơ quan điều tra, Trịnh Quốc H khai nhận hành vi phạm tội như sau:
Do quen biết T từ trước (T là bạn bè ngoài xã hội, thỉnh thoảng H có việc lên Hà Nội, H và T có gặp nhau để giao lưu nhưng H không biết họ tên, lai lịch cụ thể của T). Vào khoảng tháng 6 năm 2018 H gặp lại T và hỏi T có biết ai bán ma túy tổng hợp thì lấy giúp H để H mua về sử dụng; T đồng ý, bảo H cho T số điện thoại để chủ động liên lạc. Đến sáng ngày 24/12/2018, T điện thoại cho H (H không nhớ và cũng không lưu số điện thoại của T) hỏi H lấy bao nhiêu tiền ma túy, H bảo T là H có 92.000.000đ (Chín mươi hai triệu đồng) để mua ma túy; T hẹn H đến khu vực hồ Thành Công, thành phố Hà Nội gặp T để giao dịch. Khoảng 14h ngày 24/12/2018, H một mình bắt xe khách lên Hà Nội gặp T, H đưa cho T 92.000.000đ (Chín mươi hai triệu đồng), T đưa cho H một túi nylon gồm nhiều loại ma túy tổng hợp, T nói với H là tiền thuốc lắc là 57.000.000đ (Năm mươi bảy triệu đồng) và tiền Ketamine là 35.000.000đ (Ba mươi lăm triệu đồng). Khi mua được ma túy xong, H bắt xe khách về nhà chia nhỏ cất giấu trong nhà, trong cốp xe máy Airblade của H và trong người H để sử dụng. Khoảng 22h ngày 26/12/2018, H đi xe máy một mình đến khu vực ngã tư đường Giải Phóng – Trần Huy Liệu vượt đèn đỏ thì bị lực lượng Công an yêu cầu dừng xe và kiểm tra, phát hiện thu giữ toàn bộ số ma túy của H đang cất giấu trong người và trong xe máy. Ngoài ra, lực lượng Công an còn khám xét thu giữ tại nhà H nhiều loại ma túy tổng hợp khác. Toàn bộ số ma túy bị thu giữ là của H mua về cất giấu với mục đích để sử dụng dần cho bản thân (BL 129 -130, 132- 136, 138-142, 150-154).
Đối với đối tượng tên T ở khu vực hồ Thành Công, thành phố Hà Nội là người bán ma túy cho Trịnh Quốc H theo lời H khai, do không xác định được họ tên, địa chỉ nên chưa xử lý được. Cơ quan điều tra tách ra để tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.
Tại bản Cáo trạng số 28/CTr-VKS-P1 ngày 11/4/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định truy tố Trịnh Quốc H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2019/HS -ST ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, đã quyết định:
Tuyên bố Trịnh Quốc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 249; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt Trịnh Quốc H: Tù chung thân.
Phạt tiền bị cáo Trịnh Quốc H 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng sung quỹ nhà nước.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 25 tháng 5 năm 2019, bị cáo Trịnh Quốc H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, đồng thời phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Trịnh Quốc H, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử: Tòa án cấp sơ thẩm đã xử bị cáo H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được căn cứ để xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, đề nghị bác kháng cáo của bị cáo Trịnh Quốc H.
Luật sư bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Tòa án cấp sơ thẩm có nêu rõ các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng chưa thực sự xem xét cho bị cáo. Bị cáo lập công chuộc tội, bố mẹ bị cáo là người có công với cách mạng, con của bị cáo không thể phát triển bình thường. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, chỉ có 1 tình tiết tăng nặng là “tái phạm”. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án; căn cứ vào lời khai của bị cáo Trịnh Quốc H tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang; biên bản khám xét; kết luận giám định; lời khai của người làm chứng và các tài liệu trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Ngày 26/12/2018, Trịnh Quốc H có hành vi cất giấu để sử dụng trái phép 120,796 gam MDMA và 43,204 gam Ketamine ở trong người và trong cốp xe máy thì bị phát hiện bắt quả tang tại khu vực ngã ba đường Giải Phóng - Xuân Trình thuộc phường Trường Thi, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Ngoài ra, Trịnh Quốc H còn mua, cất giấu để sử dụng tại nơi ở của H gồm: 305,819 gam MDMA; 143,388 gam Ketamine; 39,744 gam Methamphetamine; 45,419 gam hỗn hợp MDMA và Ketamine (Hàm lượng MDMA trung bình và Ketamine trung bình là 17,0% v à 2,3% tương đương 7,721 gam MDMA và 1,044 gam Ketamine). Toàn bộ số ma túy bị thu giữ của Trịnh Quốc H, H khai nhận mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổng khối lượng ma túy mà Trịnh Quốc H phải chịu trách nhiệm hình sự là: 434,336 gam MDMA; 39,744 gam Methamphetamine và 187,636 gam Ketamine. Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo Trịnh Quốc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Trịnh Quốc H: Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Trong quá trình điều tra vụ án, bị cáo đã cung cấp thông tin giúp cơ quan điều tra bắt giữ một vụ ma túy, Cơ quan điều tra có văn bản đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Bố, mẹ của bị cáo đều là người có công với cách mạng và được tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến; đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã bị kết án chưa được xóa án tích, phạm tội lần này là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại cấp phúc thẩm bị cáo không đưa ra được tình tiết hoặc căn cứ nào thuộc về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Toà án cấp sơ thẩm tuyên phạt tù chung thân đối với bị cáo trong trường hợp này là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, đáp ứng công cuộc đấu tranh phòng chống loại tội phạm về ma tuý mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, cũng như đề nghị của luật sư.
[3]. Về án phí: Bị cáo Trịnh Quốc H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[4]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự.
Không chấp kháng cáo của bị cáo Trịnh Quốc H; giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2019/HS-ST ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định:
Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Quốc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 249; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Trịnh Quốc H tù chung thân; thời gian chấp hành tính từ ngày 26/12/2018, tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án .
Phạt tiền bị cáo Trịnh Quốc H 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng sung quỹ nhà nước.
Về án phí: Bị cáo Trịnh Quốc H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 654/2019/HSPT ngày 24/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 654/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về