TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 144/2022/DS-PT NGÀY 10/08/2022 VỀ TRANH CHẤP RANH GIỚI GIỮA CÁC BẤT ĐỘNG SẢN, ĐÒI TRẢ LẠI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 10 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 120/2022/TLPT-DS ngày 06 tháng 6 năm 2022 về Tranh chấp về ranh giới giữa các bất động sản, đòi trả lại quyền sử dụng đất.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 61/2022/DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 143/2022/QĐXXPT-DS ngày 04 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Sinh Đ Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: anh Lê Hữu Qu (theo văn bản ủy quyền ngày 26/7/2022). (có mặt) Cùng cư trú tại: Thôn Mỹ Th, xã Ân M, huyện H, tỉnh Bình Định.
- Bị đơn: Bà Phan Thị Duy Nh (Phan Thị Nh) Cư trú tại: Thôn Mỹ Th, xã Ân M, huyện H, tỉnh Bình Định.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Anh Cao Thanh T; cư trú tại: Số 50 Th, phường Q, thành phố Q, tỉnh Bình Định (theo văn bản ủy quyền ngày 12/7/2022). (có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Huỳnh Thị Phương D (có mặt) Cư trú tại: Thôn Mỹ Th, xã Ân M, huyện H, tỉnh Bình Định.
2. Ông Cao Thanh D1 Cư trú tại: Thôn Mỹ Th, xã Ân M, huyện H, tỉnh Bình Định.
Người đại diện theo ủy quyền của ông D1: Anh Cao Thanh T, cư trú tại: Số 50 Th, phường Q, thành phố Q, tỉnh Bình Định (theo văn bản ủy quyền ngày 12/7/2022). (có mặt)
3. Ủy ban nhân dân (UBND) xã Ân M (có đơn đề nghị vắng mặt) Trụ sở: Thôn Long Qu, xã Ân M, huyện H, tỉnh Bình Định. Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn H – Chủ tịch.
4. Ủy ban nhân dân huyện H (có đơn đề nghị vắng mặt) Trụ sở: 04 Lê Duẩn, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hữu Kh – Chủ tịch.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Văn V – Phó Chánh Văn phòng HĐND và UBND huyện H.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Lê Sinh Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bà Huỳnh Thị Phương D là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lê Sinh Đ trình bày:
Nguồn gốc đất của ông Lê Sinh Đ và bà Huỳnh Thị Phương D là của mẹ ông Đ tên Nguyễn Thị B (chết năm 20 ), ông Đ, bà D đư c bà Nguyễn Thị B tặng cho quyền sử dụng đất vào năm 20 5. Thửa đất số 283, tờ bản đồ số 0 , diện tích 140m2 (đất ở) đư c UBND huyện Hoài Ân cấp giấy CNQSDĐ số: CH 00046 ngày 24/8/2010 cho ông Lê Sinh Đ và bà Huỳnh Thị Phương D. Năm 5, ông Đ, bà D xây dựng nhà ở vẫn còn chừa một khoảng đất trống giáp với đất của bà Phan Thị Duy Nh, khi bà Nh xây dựng nhà kho chứa vật liệu, tường nhà kho sát vách nhà ông Đ thì v chồng ông Đ đã phản ứng việc bà Nh xây dựng tường nhà kho lấn sang đất của ông Đ, nhưng bà Nh không nghe nên đôi bên có gây cãi. Tháng 7/2020, bà Nh tiếp tục xây dựng tường nhà kho và tường rào phía sau lại áp sát tường chuồng heo nhà ông Đ nên ông Đ mời chính quyền đến giải quyết. Bà Nh thừa nhận có xây lấn, đồng ý phá bỏ tường rào phía sau trả lại đất, nhưng ông Đ không đồng ý, ông Đ đòi bà Nh trả lại toàn bộ diện tích xây dựng lấn chiếm từ trước ra sau. Ông Đ, bà D xác định: Bà Nh xây dựng tường rào, tường nhà kho lấn qua thửa đất số 283 của ông Đ là: Phía trước 0,34m; phía sau 0,4m; chiều dài từ trước ra sau là 27m nên yêu cầu bà Nh phải tháo dở tường nhà kho trả lại đất cho ông Đ, bà D.
Bị đơn bà Phan Thị Duy Nh trình bày:
Nguồn gốc đất của bà Phan Thị Duy Nh (Phan Thị Nh) là của bà Ngô Thị Th, thửa đất số 284(1), tờ bản đồ số 0 , diện tích (đất ở 300m2, đất vườn 40m2), v chồng bà Ngô Thị Th và ông Bạch Tấn Đ1 đã chuyển như ng cho v chồng bà Phan Thị Nh, ông Cao Thanh D1 theo h p đồng chuyển như ng ngày 2 / / 7.
Bà Nh khẳng định tường nhà kho phía trước bà xây dựng năm 2000, tường nhà kho ở đoạn giữa bà xây dựng năm 20 0, tường rào phía sau bà xây dựng năm 2020. Nhà ở, nhà kho chứa vật liệu bà Nh, ông D1 xây dựng là trên thửa đất số 284(1) của bà Nh nhận chuyển như ng từ bà Th, ông Đ1, không xây lấn qua thửa đất của bà D, ông Đ nên bà không chấp nhận yêu cầu của ông Đ bà D đòi bà Nh dỡ dọn tường rào, tường nhà kho, trả lại đất có kích thước Phía trước 0,34m; phía sau 0,4m; chiều dài từ trước ra sau là 27m.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Huỳnh Thị Phương D trình bày: Bà là v của ông Lê Sinh Đ, bà thống nhất với trình bày và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
2. Ông Cao Thanh D1 trình bày: Ông là chồng bà Phan Thị Duy Nh, ông thống nhất với nội dung bà Nh đã trình bày.
3. Người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân xã Ân M trình bày:
Quy trình, thủ tục giao cấp QSDĐ cho ông Lê Sinh Đ và bà Huỳnh Thị Phương D (thửa đất số 283, tờ bản đồ số 0 ); cấp cho bà Ngô Thị Th (thửa đất số 284(1), tờ bản đồ số 0 ) là đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật. Diện tích của thửa 283 bị thiếu là do sai số trong quá trình đo v , tính toán. Đề nghị Tòa án xem xét theo hiện trạng, giải quyết theo quy định của pháp luật.
Nguyên thủy: Phía Đông thửa đất số 283 giáp số thửa 282 của Nguyễn Thị B có miếng đanh cửa s nhà ông Đ, bà D (rộng 0,4m và dài ,2m). Khi đo đạc cấp giấy chứng nhận QSDĐ thì Văn phòng ĐKĐĐ huyện H đo đạc, v sơ đồ không đưa vào xử lý.
4. Người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân huyện H trình bày:
Quy trình, thủ tục giao cấp QSDĐ cho ông Lê Sinh Đ và bà Huỳnh Thị Phương D (thửa đất số 283, tờ bản đồ số 0 ); cấp cho bà Ngô Thị Th (thửa đất số 284(1), tờ bản đồ số 0 ) là đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án xem xét theo hiện trạng, giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bản án dân sự sơ thẩm số 61/2022/DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện H quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Sinh Đ, bà Huỳnh Thị Phương D: Buộc bà Phan Thị Duy Nh, ông Cao Thanh D1 dở dọn công trình tường nhà kho, tường rào xây dựng trên thửa đất số 284(1), tờ bản đồ số 0 trả lại đất cho thửa số 283, tờ bản đồ số 0 , có các kích thước (rộng phía trước 0,34m; phía sau 0,4m; dài 27,5m) theo giấy chứng nhận đứng tên ông Đ bà D, tại thôn Mỹ Th, xã Ân M, huyện H, tỉnh Bình Định.
Giữ nguyên ranh giới giữa 02 thửa đất số 283, tờ bản đồ số 0 , tên Lê Sinh Định, Huỳnh Thị Phương Dung và thửa đất số 284(1), tờ bản đồ số 0 tên Phan Thị Duy Nh thuộc thôn Mỹ Th, xã Ân M, huyện H, tỉnh Bình Định theo hiện trạng sử dụng.
Ngoài ra, bản án dân sự sơ thẩm còn quyết định về chi phí đo đạc, định giá tài sản, án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 04/5/2022, bà Huỳnh Thị Phương D là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lê Sinh Đ kháng cáo toàn bộ nội dung quyết định của bản án sơ thẩm với nội dung: Yêu cầu gia đình bà Phan Thị Duy Nh tháo dỡ hàng rào, nhà kho trả lại đất lấn chiếm cho gia đình bà tại thửa đất số 283 tờ bản đồ số 0 tại thôn Mỹ Th, xã Ân M, huyện H, tỉnh Bình Định phía trước giáp đường tỉnh lộ 629 là 0,34m; Phía sau là 0,4m; chiều dài từ trước ra sau là 27m Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Trong quá trình tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng; đồng thời đề nghị không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sự vắng mặt của đương sự: Người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân xã Ân M và Ủy ban nhân dân huyện H vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên theo quy định tại Điều 26 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.
[2] Xét nội dung kháng cáo của bà Huỳnh Thị Phương D là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, HĐXX thấy rằng:
[2.1] Nguồn gốc thửa đất số 283 là của bà Nguyễn Thị B (mẹ ông Đ) tặng cho ông Đ, bà D từ năm 5. Năm 20 0, UBND huyện H cấp giấy CNQSDĐ số CH 00046 ngày 24/8/2010 với diện tích 40m2 đất ở cho v chồng ông Đ, bà D. Năm 5, ông Đ, bà D đã tiến hành xây dựng nhà ở cấp 4 kiên cố, phía Bắc giáp thửa đất số 282 của bà Nguyễn Thị B có một tấm đanh cửa s nhà ông Đ (dài ,2m x rộng 0,4m). Năm 20 4, bà B buộc v chồng ông Đ đập miếng đanh trả lại diện tích đất dưới miến đanh cho bà B.
[2.2] Nguồn gốc thửa đất số 284(1) tờ bản đồ số 0 là của bà Ngô Thị Th ông Bạch Tấn Đ1 chuyển như ng cho bà Phan Thị Duy Nh vào năm 7 với diện tích với diện tích 340m2 (trong đó: 300m2 đất ở và 40m2 đất vườn) và đã đư c Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00206 QSDĐ ngày 2 / 0/ 7 cho bà Phan Thị Nh. Năm 2000, bà Phan Thị Duy Nh xây dựng nhà kho, phía trước giáp ranh đất ông Đ. Năm 20 0, v chồng bà Nh xây nhà kho ở giữa đến tháng 7/2020 bà Nh xây dựng phần tường rào phía sau nhà thì ông Đ, bà D tranh chấp cho rằng bà Nh xây dựng tường rào, tường nhà kho lấn sang thửa đất của ông Đ (phía trước 0,34m; phía sau 0,4m và dài từ trước ra sau là 27,5m) nên ông Đ khởi kiện yêu cầu bà Nh tháo dỡ tường rào, tường nhà kho trả lại đất lấn chiếm cho ông Đ, bà D.
[2.3] Thửa đất 283 và 284(1) tiếp giáp với nhau. Qua công tác kiểm tra thực tế, đo đạc và xem xét, thẩm định tại ch tại cấp sơ thẩm ngày 23/4/2021 kết quả xác định thửa đất số 283 có chiều rộng phía trước 4,66m, chiều rộng phía sau 5,21m, diện tích thửa đất 137,3m2 là thiếu 2,7m2 so với diện tích đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho v chồng ông Đ bà D; còn thửa đất số 284(1) có diện tích 347,7m2. là thừa 7,7m2 so với diện tích đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Nh.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Đ bà D nên ông Đ kháng cáo và yêu cầu tòa án cấp phúc thẩm đo đạc lại hai thửa đất đang tranh chấp. Theo kết quả đo đạc của cấp phúc thẩm ngày 07/7/2022 thì thửa đất số 283 có chiều rộng phía trước 4,73m, chiều rộng phía sau 5,54m, diện tích thửa đất 140,3m2 là thừa 0,3m2 so với diện tích đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho v chồng ông Đ bà D; còn thửa 284(1) có diện tích 344m2. là thừa 04m2 so với diện tích đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Nh. Việc thửa đất ông Đ, bà D hiện trạng phía trước nhỏ hơn phía sau theo kết quả đo đạc ngày 07/7/2022 là phù h p với bản v trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Đ, bà D có đường gấp khúc giáp ranh với thửa đất bà Nh.
Mặc khác, ông Đ bà D xây dựng nhà từ năm 5, bà Nh xây dựng tường nhà kho, tường rào nhiều lần vào các năm 2000, 20 0, 2020 và sử dụng n định đến khi xảy ra tranh chấp năm 2020. Năm 7 bà Nh đư c cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến năm 20 0 v chồng ông Đ, bà D mới đư c cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ông D1 là người ký ranh giới hộ liền kề không có tranh chấp để cho ông Đ, bà D làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và từ khi ông Đ bà D đư c cấp giấy chứng nhận thì hai bên gia đình sử dụng n định, ranh giới rõ ràng cho đến khi xảy ra tranh chấp năm 2020 nên không đủ cơ sở để xác định bà Nh xây dựng tường nhà, tường nhà kho, tường rào lấn qua đất của bà D, ông Đ.
[2.4] Ngoài ra, đại diện UBND huyện H khẳng định quy trình, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Đ, bà D là đúng quy định pháp luật, thửa đất số 283 của ông Đ, bà D hiện nay chiều rộng phía trước thiếu 27cm và chiều rộng phía sau thừa 04 cm là do sai số trong quá trình đo v , tính toán lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phía Bắc nhà ở ông Đ bà D giáp thửa đất số 282 của bà Nguyễn Thị B có tấm đanh cửa s bằng bê tông, khi đo đạc cấp giấy chứng nhận do không có yêu cầu đo đạc nhà ở và tài sản gắn liền với đất nên không đo v tấm đanh cửa s đưa vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đ bà D, hiện nay tấm đanh đã tháo dỡ nên không có cơ sở để xác định. Hiện nay các bên đã xây dựng nhà ở và sử dụng n định, ranh giới rõ ràng nên đề nghị Tòa án xem xét theo hiện trạng đang sử dụng của các bên để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Từ những phân tích tại mục [2. ], [2.2], [2.3] và [2.4] xét thấy kháng cáo của bà Huỳnh Thị Phương D yêu cầu gia đình bà Phan Thị Duy Nh tháo dỡ hàng rào, nhà kho trả lại đất lấn chiếm cho gia đình bà là không có căn cứ nên không đư c HĐXX chấp nhận.
[3] Về án phí.
[3.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/ 2/20 6 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì ông Lê Sinh Đ phải chịu 300.000 đồng, đư c trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 000 853 ngày 2 / 2/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.
[3.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Theo quy định khoản Điều 2 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/ 2/20 6 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì ông Lê Sinh Đ phải chịu 300.000 đồng, đư c trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 00 05 0 ngày 04/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, ông Đ bà D đã nộp xong.
[4] Về chi phí tố tụng gồm: Theo quy định tại khoản Điều 65 Bộ luật tố tụng dân sự năm 20 5 thì:
- Chi phí xem xét thẩm định tại ch và định giá tại cấp sơ thẩm 8.113.938 đồng, ông Đ bà D phải chịu, đã nộp xong.
- Chi phí xem xét thẩm định tại ch và định giá tại cấp phúc thẩm 9.000.000 đồng, ông Đ bà D phải chịu, đã nộp xong.
[5] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù h p với nhận định của HĐXX.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 165 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 163, 164, 175 Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 166, 203 Luật đất đai năm 2013;
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Sinh Đ. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 61/2022/DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện H.
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Sinh Đ, bà Huỳnh Thị Phương D: Buộc bà Phan Thị Duy Nh, ông Cao Thanh D1 phải tháo dở công trình tường nhà kho, tường rào (có kích thước: Rộng phía trước 0,34m, phía sau 0,4m, dài 27,5m) lấn qua thửa đất số 283, tờ bản đồ số 0 , tại thôn Mỹ Th, xã Ân M, huyện H, tỉnh Bình Định cho v chồng ông Đ bà D theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 00046 do UBND huyện H cấp cho v chồng ông Lê Sinh Đ, bà Huỳnh Thị Phương D ngày 24/8/2010.
Giữ nguyên ranh giới giữa 02 thửa đất số 283, tờ bản đồ số 0 (đứng tên Lê Sinh Đ, Huỳnh Thị Phương D) và thửa đất số 284(1), tờ bản đồ số 0 (đứng tên Phan Thị Duy Nh) tại thôn Mỹ Th, xã Ân M, huyện H, tỉnh Bình Định theo hiện trạng sử dụng.
3. Về án phí:
3.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Sinh Đ phải chịu 300.000 đồng, đư c trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 000 853 ngày 2 / 2/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, (đã nộp xong).
3.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê Sinh Đ, phải chịu 300.000 đồng, đư c trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 00 05 0 ngày 04/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, (đã nộp xong).
4. Về chi phí tố tụng gồm:
- Chi phí xem xét thẩm định tại ch và định giá tại cấp sơ thẩm 8.113.938 đồng, ông Đ bà D phải chịu (đã nộp xong).
- Chi phí xem xét thẩm định tại ch và định giá tại cấp phúc thẩm 9.000.000 đồng, ông Đ bà D phải chịu (đã nộp xong).
5. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án:
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 144/2022/DS-PT về tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản, đòi trả lại quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 144/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 10/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về