Bản án 14/2023/HS-PT về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 14/2023/HS-PT NGÀY 07/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 303/2022/TLPT-HS ngày 27/12/2022, đối với bị cáo Huỳnh Xuân H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Do có Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2022/HS-ST ngày 15/11/2022 của Toà án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo bị kháng nghị:

Họ và tên: Huỳnh Xuân H, sinh ngày 21/6/1993 tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Tổ dân phố B, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 7/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Ngọc B (đã chết) và bà Dương Thị M, sinh năm 1974; bị cáo chưa có vợ con. Tiền sự: không.

Tiền án: Có 01 tiền án: Tại Bản án số 23/2017/HSST, ngày 02/6/2017 của Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, đã xử phạt Huỳnh Xuân H 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/6/2019, nhưng chưa thi hành các khoản về bồi thường dân sự, án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Về nhân thân: Ngày 26/12/2007, bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận H, thành phố Đà Nẵng ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi Trộm cắp tài sản; ngày 31/8/2010, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đ xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 265/2010/HSPT); ngày 24/8/2012, bị Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 80/2012/HSST), đã chấp hành các bản án và được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/8/2022, hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào chiều ngày 31/8/2022, Huỳnh Xuân H đi từ nhà ở tổ dân phố B, thị trấn Q, huyện C đến khu vực nghĩa địa ở đồi thông C, thuộc thị trấn Q, huyện C, tìm gặp một người có tên thường gọi là B (chưa rõ nhân thân lai lịch) để hỏi mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến khu vực nghĩa địa thì gặp một nam thanh niên, H hỏi người này “Có phải là B không, có ma túy bán không?”, người nam thanh niên này hỏi H “Mua bao nhiêu?”, thì H trả lời là “Mua 300.000 đồng”, sau đó H đưa tiền cho B và lấy một gói nylon từ B. Sau khi mua xong thì H bỏ gói nylon vào trong bao thuốc lá hiệu CRAVEN rồi cho vào trong túi quần và đi đến nhà nghỉ K để thuê phòng trọ sử dụng ma túy. Khi đi đến nhà nghỉ K, thuộc thị trấn Q, huyện C, H thuê phòng số 8, khi H đang mở cửa để đi vào phòng thì bị lực lượng Công an huyện Cư M’gar bắt quả tang. Tại thời điểm bắt quả tang lực lượng Công an phát hiện trong túi quần bên phải H đang mặc có một bao thuốc lá hiệu CRAVEN màu bạc, bên trong bao thuốc lá có một gói nylon kích thước (01×2,5)cm, bên trong gói nylon có chứa chất rắn dạng tinh thể, H khai nhận là ma túy đá H mới mua của người có tên gọi là B, mục đích để sử dụng. Sau đó lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tạm giữ và niêm phong tang vật theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Bản kết luận giám định số 867/KL-KTHS ngày 08/9/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1448 gam, loại Methamphetamine.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2022/HS-ST ngày 15/11/2022 của Toà án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Xuân H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Xuân H 02 năm 02 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 31/8/2022.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/12/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKS- P7, kháng nghị một phần bản án sơ thẩm, với nội dung: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Huỳnh Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 của Bộ luật hình sự, là có căn cứ và đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, cụ thể: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2012/HSST ngày 24/8/2012 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk đã xử phạt Huỳnh Xuân H 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 09/3/2016 bị cáo chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích, thì ngày 15 và ngày 23/12/2016, H tiếp tục phạm tội và bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại bản án số 23/2017/HSST ngày 02/6/2017, với tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999; ngày 28/6/2019, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa thi hành các khoản về bồi thường dân sự, án phí, thì ngày 31/8/2022 lại tiếp tục phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Như vậy, lần phạm tội này bị cáo đã phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”, là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự, nhưng cấp sơ thẩm lại truy tố và xét xử bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo là không đúng quy định của pháp luật. Do án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nên mức hình phạt đối với bị cáo là nhẹ. Do đó, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về áp dụng pháp luật và mức hình phạt tù đối với Huỳnh Xuân H.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung kháng nghị, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, do đó xử phạt bị cáo mức án 02 năm 02 tháng tù là nhẹ và chưa đúng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKS- P7, ngày 08/12/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk; sửa bản án sơ thẩm về áp dụng pháp luật và mức hình phạt đối với bị cáo.

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Huỳnh Xuân H từ 05 năm đến 05 năm 03 tháng tù; các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào chiều ngày 31/8/2022, Huỳnh Xuân H đã tìm gặp đối tượng tên B mua ma túy, mục đích để sử dụng, H đã đưa cho B số tiền 300.000 đồng và được B giao 01 gói nylon. Sau khi mua được ma túy, H đã đi đến nhà nghỉ K thuộc tổ dân phố M, thị trấn Q, huyện C, để thuê phòng trọ sử dụng, thì bị lực lượng Công an huyện Cư M’gar bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 01 gói nylon bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể. Kết luận giám định xác định chất rắn dạng tinh thể đựng trong 01 gói nylon đã thu giữ của bị cáo là ma túy, có khối lượng 0,1448 gam, loại Methamphetamine. Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội.

[2] Đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét thấy: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Huỳnh Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm”, là không đúng và có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, bởi lẽ:

[2.1] Hồ sơ vụ án thể hiện, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2012/HSST ngày 24/8/2012 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Lắk đã xử phạt Huỳnh Xuân H 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 09/3/2016 chấp hành xong hình phạt và chưa được xóa án tích, thì ngày 15 và ngày 23/12/2016, Huỳnh Xuân H tiếp tục phạm tội và tại Bản án số 23/2017/HSST ngày 02/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông xử phạt Huỳnh Xuân H 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, với tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 1999. Đến ngày 28/6/2019, Huỳnh Xuân H chấp hành xong hình phạt tù của bản án này, nhưng chưa thi hành các khoản về bồi thường trách nhiệm dân sự và án phí, nên chưa được xóa án tích và đến ngày 31/8/2022 lại tiếp tục phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2.2] Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 của Bộ luật hình sự, thì lần phạm tội này bị cáo đã phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”, là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự, nhưng cấp sơ thẩm lại truy tố và xét xử bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo là không đúng quy định của pháp luật.

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)...;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

…;

o) Tái phạm nguy hiểm.

[2.3] Như vậy, bản án sơ thẩm đã có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nên mức hình phạt đối với bị cáo là nhẹ, không đúng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, là có căn cứ nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận và sửa bản án sơ thẩm về áp dụng pháp luật và mức hình phạt đối với bị cáo Huỳnh Xuân H.

[3] Về hình phạt: Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an chung của xã hội; bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị kết án nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện và cần phải cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhất định thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và mới đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đã thực hiện, là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nhằm thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta.

[4] Về án phí: Vụ án xét xử theo thủ tục phúc thẩm do có kháng nghị của Viện kiểm sát, nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKS-P7, ngày 08/12/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk; sửa Bản án sơ thẩm 60/2022/HS-ST, ngày 15/11/2022 của Toà án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk về áp dụng pháp luật và mức hình phạt tù đối với bị cáo Huỳnh Xuân H.

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Xuân H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Về hình phạt: Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Xuân H 05 (năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 31/8/2022.

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 11 và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Huỳnh Xuân H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2023/HS-PT về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;