TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 133/2023/HS-PT NGÀY 17/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 4 năm 2023, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai mở phiên tòa trực tuyến, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2023/TLPT- HS ngày 06 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Đỗ Thị Thu Tr; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 583/2022/HS-ST ngày 26 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố H.
- Bị cáo có kháng cáo: Đỗ Thị Thu Tr, sinh năm 1990 tại Đồng Nai (Tên gọi khác là B ke).
Nơi đăng ký thường trú: 16XX, tổ 6, khu phố 4, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ T (chết) và bà Trần Thị Ngọc A, sinh năm 1959; Bị cáo sống như vợ chồng với Phạm H T, sinh năm 1988, có 1 con chung tên Phạm H Ph, sinh năm 2008.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 07/10/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nội dung chính:
Đỗ Thị Thu Tr là đối tượng sử dụng ma túy. Khoang 17 giơ ngay 06-6- 2022, Tr điều khiển xe môtô biển số 60F3-920.50 đến khu vưc trước cổng vào Khu du lịch ST thuộc tổ 9, khu phố 3, phương H, thanh phố H và mua cua 01 nam thanh niên (Chưa ro lai lic̣ h) 11 tep Heroin và 03 tép ma túy tổng hợp (Hàng đá) vơi gia 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng). Tr cất số ma túy vừa mua vào gói nylon với mục đích sử dụng.
Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, tại địa điểm trên, khi Tr đang ngồi trên xe và nghe điện thoại thì anh Nguyễn Văn Đ sinh năm 1985 ngụ tại tổ 4, khu phố 3, phường B, thành phố H và anh Thiều Văn T sinh năm 1982 ngụ tại xã Đông T, huyện S, tỉnh Thanh Hóa đi đến. Trang nhận ra anh Đ là thành viên Câu lạc bộ phòng chống tội phạm nên Tr bỏ chạy vào trong bãi cỏ ven đường (Cách chỗ Tr đậu xe khoảng 13m) thì anh Đ và T đuổi kịp Tr. Lúc này, Tr vứt gói nylon chứa ma túy xuống bãi cỏ nhằm tẩu tán tang vật thì bị anh Đ và anh T phát hiện nên giữ Tr lại và báo Công an phường H lập biên bản thu giữ tang vật.
2. Vật chứng:
- 11 (Mười một) đoạn ống nhựa hàn kín chứa chất bột màu trắng (Kí hiệu M1), 03 (Ba) đoạn ống nhựa hàn kín chứa tinh thể màu trắng (Kí hiệu M2) được niêm phong có chữ ký ghi họ tên của Đỗ Thị Thu Tr và hình dấu màu đỏ Công an phường H.
- 01 Điện thoại di động hiệu Iphone số thuê bao 0367176343 số Imei 356166099139304 của Tr không liên quan đến việc phạm tội. Tr đề nghị trả điện thoại trên cho bà Trần Thị Ngọc A – sinh năm 1959 thường trú: 16XX, tổ 6, khu phố 4, phường H, thành phố H (mẹ của Tr) quản lý nên Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại trên cho bà A.
- 01 xe môtô biển số 60F3-920.50 do bà Trần Thị Ngọc A đứng tên chủ sở hữu, bà A cho Tr mượn và không biết Tr dùng vào viêc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho bà A quản lý.
3. Tại Kết luận giám định số 1843/KLGĐ-PC09 ngày 22/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận như sau:
- Mẫu chất bột màu trắng (Kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3964 gam, loại: Heroin.
- Mẫu tinh thể màu trắng (Kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,2169 gam, loại: Methamphetamine.
4. Quyết định của cấp sơ thẩm: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 583/2022/HS-ST ngày 26 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố H, đã căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Tuyên bố bị cáo Đỗ Thị Thu Tr phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt: Đỗ Thị Thu Tr 02 (hai) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2022.
- Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định tại gói niêm phong số 1209/KL-KTHS ngày 13/06/2022 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đồng Nai (Theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản ngày 01/12/2022 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự thành phố H).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.
5. Kháng cáo:
Ngày 09/01/2023, bị cáo Đỗ Thị Thu Tr kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.
6. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:
Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được làm rõ tại phiên tòa phúc thẩm, cho thấy cấp sơ thẩm giải quyết là có cơ sở và phù hợp. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết nào mới để có cơ sở chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm và rút kinh nghiệm đối với cấp sơ thẩm về việc xác định tiền sự và nhân thâ n của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về tội danh:
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với mô tả và nhận định trong bản án của cấp sơ thẩm.
Lúc 17 giờ 30 phút ngày 06/06/2022, bị cáo Tr đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,3964 gam ma túy loại Heroin và 0,2169 gam ma túy loại Methamphetamine thì bị phát hiện thu giữ tang vật và bắt quả tang.
Như vậy, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[4] Xét kháng cáo của bị cáo:
Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cấp sơ thẩm tuyên phạt án tù có thời hạn đối với bị cáo là phù hợp.
Bị cáo kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét bị cáo không có tiền án, tiền sự và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Qua các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo không có tiền sự, không có nhân thân xấu nhưng Bản án sơ thẩm xác định bị cáo có tiền sự và có nhân thân xấu nên khi xem xét lượng hình quyết định mức hình phạt là chưa phù hợp. Do đó, có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, cũng đủ thời gian để bị cáo cải tạo và thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[6] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[7] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa có phần phù, nên được chấp nhận phần phù hợp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Thị Thu Tr. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 583/2022/HS-ST ngày 26 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố H.
1. Quyết định hình phạt:
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Đỗ Thị Thu Tr 01 (năm) 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/10/2022.
2. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo Đỗ Thị Thu Tr không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 133/2023/HS-PT về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 133/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/04/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về