Bản án 14/2021/HS-ST ngày 16/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2021/HSST ngày 17 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST- HS ngày 28 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Bình S; Nơi sinh: Long An. Nơi đăng ký HKTT: Ấp Đ, xã L, huyện T, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 3/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Bé H và bà Trần Thị B;

Vợ :

+ Nguyễn Thị Kim P (đã ly hôn);

+ Nguyễn Thị Lệ Q (chung sống không đăng ký kết hôn);

+ Nguyễn Thị Thu H (chung sống không đăng ký kết hôn); Có 04 con, nhỏ nhất 01 tuổi; lớn nhất 16 tuổi;

Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 17/12/2020 cho đến nay (bị cáo có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Nguyễn Thị T. Địa chỉ: Ấp H, xã Thanh Phú Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.

2/ Ông Đinh Hoàng H. Địa chỉ: Ấp Đ, xã L, huyện T, tỉnh Long An.

- Người làm chứng:

1/ Ông Nguyễn Trần Minh H. Địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện T, tỉnh Long An.

2/ Ông Trần Hoài B. Địa chỉ: ấp H, xã L, huyện T, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 03 giờ 30 phút, ngày 09/8/2020, ông Nguyễn Trần Minh H điện thoại cho bị cáo Nguyễn Bình S nói “đem xuống cho em hai cái hai”, bị cáo S điện thoại cho ông Trần Hoài B để chở bị cáo S xuống nhà ông H. Trước khi đi bị cáo S bỏ 02 gói ma túy đá vào nón kết màu đen đội trên đầu, ông B sử dụng xe mô tô biển số 62M2- 6651 mượn của ông Nguyễn Duy P để chở bị cáo Sang xuống nhà ông H vào lúc 04 giờ 10 phút cùng ngày. Khi đến nhà ông H thì bị lực lượng Công an xã Thanh Phú Long kiểm tra hành chính và bắt giữ, lúc này nón bị cáo S đội bị rơi xuống đất có 01 gói nylon (nghi là ma túy) rơi ra ngoài cách nón khoảng 20 cm. Công an xã Thanh Phú Long lập biên bản thu giữ và niêm phong tất cả vật chứng trên và mời tất cả về trụ sở Công an xã để làm việc. Qua làm việc bị cáo S khai 02 gói nylon là ma túy đá mua của người tên V không xác định địa chỉ, bị cáo S mang theo để sử dụng.

Kết quả xét nghiệm bị cáo Sang dương tính với ma túy. Về vật chứng tạm giữ:

- 02 gói nylon có kích thước 0,1cm x 0,2cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy đã được niêm phong, 01 nón kết vải màu đen, 03 điện thoại di động Nokia màu đen, 01 xe mô tô biển số 52M2- 6651.

Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Châu Thành đã trả lại cho:

- Ông Đinh Hoàng H 01 điện thoại Nokia màu đen do ông Hải mượn của ông Hưng;

- Ông Nguyễn Duy P 01 xe mô tô biển số 52M2- 6651 mua chưa sang tên do bà Nguyễn Thị T là mẹ ruột của ông P nhận thay do ông P đang chấp hành hình phạt tù.

- Ông Trần Hoài B 01 điện thoại di động Nokia màu đen.

Tiếp tục tạm giữ:

01 điện thoại Nokia màu đen, 01 nón kết vải màu đen của bị cáo Nguyễn Bình S.

02 gói nylon ma túy sau giám định có khối lượng là 0,1293 gam, loại Methamphetamin.

Theo kết luận giám định số 722/2020/KLGĐ ngày 13/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An, kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 02 gói nylon hàn kín, được niêm phong gửi giám định là ma túy, tổng khối lượng là 0,2387 gam, loại Methamphetamine, sau giám định khối lượng còn lại là 0,1293 gam.

Bị cáo S không có ý kiến với kết luận giám định.

Trong quá trình điều tra bị cáo S thừa nhận hành vi phạm tội và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; cũng như các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 17/CT-VKSCT ngày 14/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An đã truy tố bị cáo Sang về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; các điều 38, 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Bình S từ 02 năm đến 03 năm tù.

- Đối với người đã bán ma tuý cho bị cáo S do không có họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không làm việc và xử lý hình sự.

- Đối với ông Trần Hoài B chở bị cáo Sang xuống nhà ông H nhưng ông B không biết bị cáo S mang theo ma túy trên nên không xử lý hình sự.

- Đối với xe mô tô của ông P do ông B mượn để chở bị cáo S xuống nhà ông H nhưng ông P không biết ông H dùng xe để chở bị cáo S đi xuống nhà ông H sử dụng ma túy nên không thu giữ và đã trả lại cho ông P (do bà Nguyễn Thị T là mẹ ruột của ông P nhận thay, do ông P hiện đang chấp hành án phạt tù).

- Đối với vật chứng trong vụ án Cơ quan Cảnh sát điều tra đã làm rõ và trả lại cho ông H, ông B xong.

- Trả lại cho bị cáo S 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 nón kết vải màu đen.

- Đối với gói niêm phong số 722 ngày 13 tháng 8 năm 2020, sau giám định khối lượng ma túy còn lại là 0,1293 gam, tiếp tục tạm giữ và tịch thu tiêu hủy.

- Đối với bộ dụng cụ sử dụng ma túy đã được xử lý trong vụ án khác xong.

Về án phí: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Trong quá trình tuần tra bảo đảm trật tự tại địa phương xã Thanh Phú Long, tại nhà của ông Nguyễn Trần Minh H, tổ tuần tra phát hiện bị cáo S tàng trữ trái phép chất ma túy, tiến hành lập biên bản tạm giữ tang vật và báo cáo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành xử lý theo quy định của pháp luật.

Qua quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã chứng minh được bị cáo Nguyễn Bình Sang “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[3] Tại phiên toà bị cáo Sang đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời trình bày trong quá trình điều tra vụ án, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[4] Với các chứng cứ nêu trên có đủ căn cứ kết luận bị cáo Sang phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đã truy tố bị cáo theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[5] Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố bị cáo về tội danh và hình phạt như trên là có căn cứ. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo Cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo với mức án, xử lý vật chứng và án phí như trên là phù hợp.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự quy định về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:...

c) Heroin, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, hoặc XLER- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam...;”.

[6] Xét thấy, bị cáo đã biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi bị nghiêm cấm, vì ma túy là một loại chất được quản lý chặt chẽ theo quy định của pháp luật. Bị cáo biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật sẽ bị pháp luật xử lý nghiêm minh nhưng bị cáo vẫn thực hiện. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm minh để răn đe và phòng ngừa chung. Hành vi của bị cáo đã làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự và gây hậu quả xấu ở địa phương, gây mất đoàn kết trong nhân dân, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính xem thường pháp luật.

Để lập lại trật tự kỷ cương của pháp luật, cần tuyên cho bị cáo một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, mới đề cao tính nghiêm minh của pháp luật cũng như răn đe và phòng ngừa chung. Vào năm 2003 bị cáo S bị Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử về hành vi trộm cắp tài sản (đã chấp hành xong), năm 2013 bị cáo S bị Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành đưa vào cơ sở chữa bệnh (đã chấp hành xong), nhưng bị cáo vẫn tiếp tục tàng trữ trái phép chất ma túy nên xét về nhân thân bị cáo là chưa tốt. Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo S thật thà khai báo, ăn năn hối cải; thuộc điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Vì vậy, xét cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải sửa bản thân, là người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình nghị án cần xem xét đến nhân thân của bị cáo để có mức hình phạt tương xứng.

- Đối với người đã bán ma tuý cho bị cáo S do không có họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không làm việc và xử lý hình sự là phù hợp.

- Đối với ông Trần Hoài B chở bị cáo S xuống nhà ông H nhưng ông B không biết bị cáo mang theo ma túy trên nên không xử lý hình sự là phù hợp. [7] Vật chứng trong vụ án:

- Đối với xe mô tô của ông P do ông B mượn để chở bị cáo S xuống nhà ông H nhưng ông P không biết ông H dùng xe để chở bị cáo S xuống nhà ông H sử dụng ma túy nên không thu giữ và đã trả lại cho ông P (do bà Nguyễn Thị T là mẹ ruột của ông P nhận thay, do ông P hiện đang chấp hành án phạt tù), bà T không có ý kiến và yêu cầu gì.

- Đối với vật chứng trong vụ án Cơ quan Cảnh sát điều tra đã làm rõ và trả lại cho ông H, ông B xong, không có ý kiến và yêu cầu gì.

- Trả lại cho bị cáo S 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 nón kết vải màu đen là phù hợp.

- Đối với gói niêm phong số 722 ngày 13 tháng 8 năm 2020, sau giám định khối lượng ma túy còn lại là 0,1293 gam, tiếp tục tạm giữ và tịch thu tiêu hủy.

- Đối với bộ dụng cụ sử dụng ma túy đã được xử lý trong vụ án khác là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Bình S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; các điều 38, 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Bình S 02 (hai) năm tù. Thời gian tù được tính từ ngày bị cáo tạm giam là ngày 17/12/2020.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 16/6/2021) để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Vật chứng trong vụ án: Áp dụng các điều 46, 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với gói niêm phong số 722 ngày 13 tháng 8 năm 2020, sau giám định khối lượng ma túy còn lại là 0,1293 gam, tiếp tục tạm giữ và tịch thu tiêu hủy.

- Trả lại cho bị cáo S 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 nón kết vải màu đen.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ nhà nước.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2021/HS-ST ngày 16/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;