TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 14/2020/DSPT NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI ĐẤT VÀ NHÀ CHO MƯỢN
Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm vụ án Dân sự thụ lý số 16/2020/TLPT-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2020; do có kháng cáo của nguyên đơn ông Phan Hữu T đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2020/DS-ST ngày 18/9/2020 của TAND thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2020/QĐXX-PT ngày 10/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Phan Hữu T; Sinh năm 1950; Địa chỉ cư trú: Số nhà 15, ngõ 23, đường L, tổ 3, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt Bị đơn: Ông Nguyễn Văn N; Tên gọi khác: Nguyễn Tiến N; Sinh năm 1960; Địa chỉ cư trú: Số nhà 17, ngõ 23, đường L, tổ 3, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt. Người đại diện uỷ quyền của bị đơn: Ông Nguyễn H; sinh năm 1988; Địa chỉ cư trú: Tổ dân phố 2, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh (Văn bản uỷ quyền ngày 15/01/2020); Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị B; Sinh năm 1953; Địa chỉ cư trú: Số nhà 15, ngõ 23, đường L, tổ 3, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt; Người đại diện uỷ quyền của bà Nguyễn Thị B: Ông Võ Minh C; sinh năm 1950; Địa chỉ cư trú: Số nhà 15, ngõ 23, đường L, tổ 3, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh (Văn bản uỷ quyền ngày 06/11/2020); Có mặt.
- Bà Phạm Thị L; Sinh năm 1958; Địa chỉ cư trú: Số nhà 17, ngõ 23, đường L, tổ 3, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.
Người làm chứng: Ông Trần Viết N; Địa chỉ cư trú: Số nhà 13, ngõ 23, đường L, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2020/DS-ST ngày 08/9/2020 của TAND thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh và các tài liệu có tại hồ sơ, vụ án có nội dung như sau:
Nguyên đơn ông Phan Hữu T trình bày: Năm 1985, ông Phan Hữu T nhận chuyển nhượng của ông Trần Viết T 01 thửa đất dài 18m, rộng 14m, tổng diện tích 252m2, đã được Uỷ ban nhân dân thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh cấp Quyết định số 176/VP.UB ngày 12/10/1985 với diện tích 252m2. Sau khi nhận chuyển nhượng, ông T đã xây dựng 01 ngôi nhà gỗ 3 gian lợp ngói dài 10m và 1 ngôi nhà đổ bằng dài 4m, rộng 3m. Sau đó ông T phát quang bờ bụi, cây cối vườn tạp và đắp 1 phần ao nên diện tích mở rộng ra dài 11m x rộng 5.4m = 59.4m2 sử dụng từ 1985 đến năm 1991 ổn định, không có tranh chấp. Tháng 10 năm 1991 ông bán lại phần đất mở rộng nói trên cho ông Nguyễn Văn N (dài 11m, rộng 5,4m, tổng 59,4m2) với giá 1.800.000đ. Ông N đã được UBND thị xã Hà Tĩnh cấp Quyết định số 258/VP.UB ngày 02/10/1991 với diện tích trên. Trong giấy tờ mua bán viết đơn xin trả đất theo hướng dẫn để hợp lý hóa về giấy tờ vì thời điểm đó không được bán đất, chỉ được bán tài sản gắn liền với đất. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông T thay đổi lời khai là không chuyển nhượng đất cho ông N, chỉ làm đơn trả phần đất ông cải tạo thêm, không liên quan đến 252m2 ông nhận chuyển nhượng của ông Trạm. Lúc đó đất ông N được cấp là đất trống nên ông N mượn tạm nhà và đất của ông để ở, nhà có diện tích 12m2 và đất cho mượn có diện tích 81m2. Ông N mượn sử dụng từ đó đến nay không trả lại cho ông. Vì vậy, ông khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông N trả lại nhà và đất diện tích 81m2 cho ông có tứ cận: Phía đông giáp đường khối phố, phía tây giáp hộ ông Trần Viết N, phía nam giáp đất ông T, phía bắc giáp đất ông N và buộc ông N trả tiền sử dụng nhà đất trong 28 năm theo giá thuê nhà đất, tổng cộng 1.420.480.000đ. Đối với yêu cầu phản tố về việc công nhận ông N và bà Phạm Thị L được quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại thửa số 16, tờ bản đồ số 16 (bản đồ 371) tại tổ dân phố 3, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh ông T không chấp nhận.
Bị đơn ông Nguyễn Văn N và người đại diện uỷ quyền của bị đơn ông Nguyễn Hoàng trình bày: Năm 1991 ông Phan Hữu T bán cho ông Nguyễn Văn N một phần đất với diện tích 59,4m2 (rộng 5,4m, dài 11m) và 1 căn nhà trên đất diện tích 12m2 với giá 6.000.000đ. Hai bên thống nhất thủ tục chuyển nhượng là ông T tự nguyện làm thủ tục trả lại đất cho UBND. Sau khi ông T trả đất thì ông N làm thủ tục xin nhà nước cấp lại mảnh đất ông T trả. Sau đó ông N được UBND thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh cấp Quyết định số 258/VP.UB ngày 02/10/1991, diện tích 59,4m2. Đến khoảng năm 1993, gia đình ông N xây dựng thêm 2 gian nhà và công trình phụ nối vào căn nhà đã mua theo hướng phía tây, đồng thời nâng nền, sơn sửa lại phía trong hai gian nhà cũ và sử dụng ổn định, liên tục từ đó đến năm 2016 thì ông T tranh chấp. Trước đó gia đình ông N không có tranh chấp với ai, quá trình xây dựng, cải tạo nhà đất ông T không có ý kiến gì, hai bên có ranh giới và ngõ sinh hoạt rõ ràng, hằng năm đều đóng thuế cho nhà nước đầy đủ. Quá trình sinh sống, gia đình ông N được gia đình ông Trần Viết Tcho phát quang phần tranh tro và cải tạo phần thùng trũng phía Tây mở rộng thêm diện tích. Riêng phần ao hồ sâu ở phía bắc giáp đường 2m gia đình ông N đã đổ đất lấp hồ và xây dựng thêm 01 ngôi nhà cấp 4. Khi lấp hồ và xây dựng nhà thì các hộ giáp ranh đều biết và không có ý kiến gì. Nay ông T khởi kiện đòi lại nhà và đất, tiền sử dụng nhà đất là không có căn cứ nên ông N không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T. Tại đơn phản tố ngày 24/6/2020, ông Nguyễn Văn N đề nghị Toà án công nhận ông N và bà Phạm Thị L được quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại thửa số 16, tờ bản đồ số 16 (bản đồ 371) tại tổ dân phố 3, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn có đơn rút yêu cầu phản tố trên.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị L (vợ ông N) trình bày thống nhất như trình bày của ông Nguyễn Văn N và đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị B (vợ ông T) trình bày thống nhất như trình bày của ông Phan Hữu T và đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án số 06/2020/DS-ST ngày 18/9/2020 của TAND thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh: Căn cứ khoản 5 Điều 26, Điều 100 Luật đất đai, Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Điều 91; khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều 228, điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 2 Luật người cao tuổi; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Hữu T về việc buộc ông Nguyễn Văn N (Nguyễn Tiến Nhanh) trả lại 01 ngôi nhà mái bằng và đất cho mượn diện tích 81m2 có tứ cận: Phía Đông giáp đường khối phố, phía Tây giáp hộ ông Trần Viết N, phía Nam giáp đất ông Phan Hữu T, phía Bắc giáp đất ông Nguyễn Văn N thuộc thửa đất số 16, tờ bản đồ số 16 tại tổ dân phố 3, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh và buộc ông Nguyễn Văn N trả tiền sử dụng nhà đất trong 28 năm theo giá thuê đất nhà, tổng cộng 1.420.480.000đ.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại thửa số 16, tờ bản đồ số 16 (bản đồ 371) tại tổ dân phố 3, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh của bị đơn ông Nguyễn Văn N.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Ông Phan Hữu T phải chịu 4.200.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, nhưng được khấu trừ vào số tiền 4.200.000 đồng tiền tạm ứng đã nộp.
Án còn tuyên án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án.
Ngày 02/10/2020, nguyên đơn ông Phan Hữu T kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung khởi kiện và nội dung kháng cáo. Bị đơn vẫn giữ nguyên quan điểm.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên quan điểm đã trình bày tại cấp sơ thẩm.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh sau khi nhận xét về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và các bên đương sự đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận nội dung dung đơn kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2020/DS-ST ngày 18/9/2020 của TAND thành phố H.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Cấp sơ thẩm xác định quan hệ “Tranh chấp đòi lại đất và nhà cho mượn” là đúng theo quy định tại khoản 9 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và giải quyết đúng thẩm quyền.
[2] Về nội dung:
Nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Về nguồn gốc đất: Theo lời khai của các đương sự, kết quả xác minh và hồ sơ lưu trữ tại địa phương thể hiện:
Hộ ông Phan Hữu T được Ủy ban nhân dân thị xã Hà Tĩnh (nay là thành phố H), tỉnh Hà Tĩnh cấp quyền sử dụng thửa đất số 48, tờ bản đồ số 16 (bản đồ 371), diện tích 252m2, địa chỉ tổ dân số 3, phường B, thành phố H, tại Quyết định số 176/VP.UB ngày 12/10/1985; đất có nguồn gốc nhận chuyển nhượng của ông Trần Viết Tnăm 1985, diện tích 252m2. Ngày 16/6/2010, UBND thành phố H có quyết định số 1375/QĐ-UBND cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Phan Hữu T và bà Nguyễn Thị B đối với thửa đất nói trên, diện tích 196,2m2.
Hộ ông Nguyễn Văn N được Ủy ban nhân dân thị xã Hà Tĩnh cấp quyền sử dụng thửa đất có diện tích 59,4m2, tại Quyết định số 258/VP.UB ngày 21/10/1991, có tứ cận: phía bắc giáp ao hồ và đường vào xóm, phía nam giáp vườn nhà ông Phan Hữu T, phía đông giáp đường liên phường, phía tây giáp khu dân cư. Về nguồn gốc, tại đơn khởi kiện, bản tự khai ban đầu và quá trình hoà giải ông T khai ngày 26/8/1991 đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn N 59,4m2 với giá 1.800.000 đồng theo hình thức ông T có đơn xin trả đất khoảng 60m2 và đề nghị UBND phường B cấp cho ông Nguyễn Văn N.Tại phiên toà sơ thẩm ông T không thừa nhận có chuyển nhượng đất cho ông N nhưng thừa nhận có làm đơn xin trả đất 59,4m2, đề nghị cấp diện tích đó cho ông N và có nhận của ông N 1.800.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm ông T cho rằng nhận 1.800.000đ là tiền công bồi đắp đất. Mặt khác tại hồ sơ cấp đất cho ông N theo Quyết định số 258/VP.UB ngày 21/10/1991 ông T đã ký xác nhận vào phần chủ hộ. Do đó có căn cứ khẳng định việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất 59,4m2 giữa ông T và ông N là có thật.
[2.2] Về hiện trạng và quá trình sử dụng thửa đất tranh chấp: Ông Phan Hữu T trình bày không thống nhất, khi cho rằng chuyển nhượng, khi lại trình bày cho ông N mượn nhà, đất và đó là phần diện tích ông cải tạo thêm phía ao hồ, nằm ngoài 252m2 ông T được cấp theo Quyết định số 176/VP.UB ngày 12/10/1985 nhưng ông không xuất trình được tài liệu chứng minh về việc cho ông N mượn đất cũng như tài liệu về quyền sử dụng đất của ông đối với diện tích đất cải tạo thêm. Thực tế từ năm 1991 đến nay, ông N đã quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp, cải tạo ngôi nhà tranh chấp, xây dựng thêm các công trình trên đất, đổ đất lấp ao hồ, cải tạo mở rộng thêm diện tích. Khi ông N cải tạo mở rộng nhà, xây dựng các công trình khác trên đất, đổ đất lấp hồ, cải tạo tăng thêm diện tích đất phía bắc và phía tây, ông T không phản đối gì. Quá trình sử dụng đất của các hộ được phản ánh tại hồ sơ 371 lập năm 1995 gồm Bản đồ 371, Sổ mục kê, Hồ sơ đo đạc và Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất như sau: Thửa đất số 48, tờ bản đồ số 16, diện tích 205m2, mang tên Phan Hữu T, Thửa đất số 16, tờ bản đồ 16, diện tích 186m2, mang tên Nguyễn Tiến Nhanh. Mặt khác tại hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T và bà Bưởi (vợ ông T) năm 2010 gồm: Đơn xin cấp GCNQSDĐ của ông T, Biên bản kiểm tra thực địa và xác định ranh giới thửa đất, Sơ đồ vị trí thửa đất, GCNQSDĐ số BB473076 ngày 16/6/2010 do UBND thành phố H cấp đều phản ánh diện tích đất của ông T là 196,2m2 và có phía Bắc giáp đất ông Nguyễn Tiến Nhanh dài 21m (đây là phần đất tranh chấp) mà không phản ánh giáp phần đất còn lại của ông T, ông T đã ký xác nhận vào đơn, biên bản và sơ đồ nói trên, đồng thời từ khi được cấp GCNQSDĐ đến nay ông T không có khiếu nại gì về ranh giới và diện tích đó. Tại đơn xin cấp Giấy CNQSD đất ngoài việc kê khai diện tích đất, ông T còn kê khai tài sản trên đất có một ngôi nhà hai tầng 84m2, ngoài ra không kê khai ngôi nhà nào khác.
Lời khai của ông Trần Viết N, con trai ông Trần Viết T(mất năm 2010) cũng khẳng định: đất của ông T có nguồn gốc mua của ông Trần Viết Tvào năm 1985, diện tích 252m2, sau đó ông T bán lại cho ông N một ngôi nhà mái bằng và đất rộng 5-6m, chiều dài hết thửa đất, ông N sử dụng ổn định từ đó đến nay. Sau đó ông Trạm có bán thêm cho ông N 6m2 đất phần phía sau diện tích đất ông N mua của ông T để ông N làm khu vực vệ sinh. Bên cạnh phần đất đã bán cho ông T, gia đình ông Trạm còn có một dãy tre và cái ao, gia đình đã đồng ý cho ông N đổ xỉ than san lấp hồ và xây dựng thêm nhà trên đất. Việc ông T khai bán cho ông N phần đất lấp ao hồ cải tạo thêm là không đúng, vì phần đất đó gia đình ông Trạm sử dụng, không bán, không cho ông T.
Như vậy có căn cứ khẳng định năm 1985, ông T nhận chuyển nhượng số diện tích 252m2 đã được UBND thị xã Hà Tĩnh cấp quyết định sử dụng nên ông có quyền sử dụng hợp pháp số diện tích đó. Năm 1991, ông T chuyển nhượng cho ông N 54,9m2, ông N đã được cấp quyết định sử dụng đất hợp pháp. Năm 2010 ông T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích còn lại 196,2m2 là phù hợp thực tế sử dụng đất, thực tế đã chuyển nhượng và phù hợp quy định pháp luật.
Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ do Toà án nhân dân thành phố H tiến hành phản ánh: thửa đất gia đình ông T quản lý sử dụng có diện tích 217,9m2, thửa đất gia đình ông N quản lý sử dụng có diện tích 194,5m2, hai bên có ranh giới rõ ràng, có tường nhà ngăn cách. Từ trước đến nay ông N đã thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhà đất đối với toàn bộ thửa đất số 16, tờ bản đồ số 16 đầy đủ theo quy định. Phần diện tích tăng thêm so với quyết định cấp đất của các bên là do quá trình cơi nới, cải tạo thêm.
[2.3] Về ngôi nhà mái bằng nằm trên đất tranh chấp: kết quả thẩm định nhà có diện tích 17,28m2, có nguồn gốc do nguyên đơn xây dựng. Nguyên đơn trình bày cho bị đơn mượn, bị đơn trình bày đã mua lại của nguyên đơn khi nhận chuyển nhượng đất. Cả hai bên không xuất trình được tài liệu chứng cứ trình bày của mình. Kết quả định giá hiện nay nhà đã hết khấu hao, không còn giá trị kinh tế. Do đó không chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà của nguyên đơn.
[2.4] Đối với yêu cầu của nguyên đơn đòi tiền sử dụng nhà đất 1.420.480.000đồng không được chấp nhận vì không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc đòi bị đơn trả lại đất nhà cho mượn gồm 81m2 đất thuộc thửa số 16, tờ bản đồ số 16, 01 ngôi nhà mái bằng 12m2 xây dựng trên diện tích đất cho mượn như đã xét thấy ở trên.
[2.5] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn yêu cầu Tòa án giải quyết công nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại thửa số 16, tờ bản đồ số 16 (bản đồ 371) tại tổ dân phố 3, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh cho ông N và bà Phạm Thị L nhưng sau đó bị đơn có đơn xin rút yêu cầu phản tố Tòa án nhân dân thành phố H đình chỉ xét xử là đúng quy định pháp luật.
[2.6] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Theo quy định tại khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự, ông T phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản với số tiền là 4.200.000 đồng (bao gồm cả tiền hợp đồng đo đạc kỹ thuật số 2.800.000 đồng, 1400.000đồng chi phí tố tụng khác theo tài liệu có tại hồ sơ vụ án); được khấu trừ vào số tiền tạm ứng ông T đã nộp 4.200.000 đồng tại Tòa án nhân dân thành phố H là đúng quy định.
Từ những phân tích trên, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Phan Hữu T.
Về án phí phúc thẩm: Ông Phan Hữu T là người cao tuổi nên không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Phan Hữu T. Giữ nguyên Bản án số 06/2020/DS-ST ngày 18/9/2020 của TAND thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh.
Áp dụng khoản 5 Điều 26, Điều 100 Luật đất đai, Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ – CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều 228, điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Hữu T về việc buộc bị đơn ông Nguyễn Văn N trả lại 01 ngôi nhà mái bằng và đất cho mượn diện tích 81m2 có tứ cận: Phía Đông giáp đường khối phố, phía Tây giáp hộ ông Trần Viết N, phía Nam giáp đất ông Phan Hữu T, phía Bắc giáp đất ông Nguyễn Văn N thuộc thửa đất số 16, tờ bản đồ số 16 tại tổ dân phố 3, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh và về việc buộc ông Nguyễn Văn N trả tiền sử dụng nhà đất trong 28 năm theo giá thuê đất nhà, tổng cộng 1.420.480.000đ.
2. Đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Văn N về việc yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại thửa số 16, tờ bản đồ số 16 (bản đồ 371) tại tổ dân phố 3, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh.
3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn toàn bộ án phí cho ông Phan Hữu T.
4. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Ông Phan Hữu T phải chịu 4.200.000đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, được khấu trừ vào số tiền 4.200.000đồng tiền tạm ứng đã nộp tại Tòa án nhân dân thành phố H.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 14/2020/DS-PT ngày 30/12/2020 về tranh chấp đòi lại đất và nhà cho mượn
Số hiệu: | 14/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về