Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 04/03/2019 về tranh chấp ly hôn

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 14/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1286/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2019/QĐST-HNGĐ ngày 19/02/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Hồng V, sinh năm 1988. (có mặt) Địa chỉ: Ấp C, xã G, huyện Đ, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc P, sinh năm 1986. (vắng mặt) Địa chỉ (thường trú): Ấp P, xã C, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Địa chỉ (tạm trú): Ấp C, xã G, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 14 tháng 6 năm 2018 và những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đỗ Hồng V trình bày: Chị và anh Nguyễn Ngọc P chung sống với nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian, đến đầu năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân mâu thuẫn là do cuộc sống vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, anh P gia trưởng, khó khăn, mâu thuẫn về kinh tế, chị đã cố gắng chịu đựng nhưng anh P vẫn không thay đổi. Chị và anh P đã ly thân từ tháng 7 năm 2018 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Ngọc P.

Về con chung: Chị và anh P có 01 con chung tên Nguyễn L, sinh ngày 19/11/2012, con đang sống với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung; không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Ngọc P trình bày trong quá trình giải quyết vụ án: Anh thống nhất với lời trình bày của chị Đỗ Hồng V về thời gian chung sống; điều kiện kết hôn; thời gian mâu thuẫn và con chung. Nguyên nhân mâu thuẫn là do cuộc sống vợ chồng không phù hợp, có mâu thuẫn với gia đình hai bên. Anh và chị V đã ly thân từ tháng 8 năm 2018. Nay, chị V xin ly hôn anh không đồng ý. Anh muốn được đoàn tụ với vợ để cùng chăm sóc cho con và mâu thuẫn vợ chồng vẫn có thể giải quyết được .

Về con chung: Anh và chị V có 01 con chung tên Nguyễn L, sinh ngày 19/11/2012, con đang sống với chị V. Khi ly hôn, anh yêu cầu được nuôi dưỡng con chung; không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Các đương sự đều thống nhất các chứng cứ của vụ án đã được giao nộp đầy đủ và được công khai đúng thủ tục nhưng kết quả hòa giải đoàn tụ không thành.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Đỗ Hồng V khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc P; anh P hiện đang tạm trú tại ấp C, xã G, huyện Đ, tỉnh Long An (có xác nhận về việc tạm trú của Công an xã G) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Ngọc P đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Hồng V và anh Nguyễn Ngọc P chung sống với nhau vào năm 2010 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G nên hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Trong quá trình chung sống, chị V và anh P phát sinh mâu thuẫn, nên anh chị sống ly thân từ tháng 7 năm 2018 cho đến nay. Chị V cho rằng tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên kiên quyết ly hôn với anh P. Ngược lại anh P cho rằng mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng, có thể khắc phục được nên không đồng ý ly hôn.

Xét thấy, chị V và anh P đều trình bày trong quá trình chung sống, cuộc sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn nhưng mâu thuẫn lại không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Anh P trình bày mâu thuẫn giữa anh và chị V chưa đến mức trầm trọng nhưng anh chị vẫn không thể tự khắc phục được dẫn đến sống ly thân từ tháng 7 năm 2018. Từ khi sống ly thân đến nay, anh P cũng không tìm ra được biện pháp nào để vợ chồng đoàn tụ, trong khi chị V xác định không còn tình cảm và kiên quyết yêu cầu ly hôn với anh P. Mặt khác, từ khi Tòa án tiến hành hòa giải (ngày 21/12/2018) cho đến ngày xét xử vụ án, chị V và anh P vẫn không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại phiên tòa, anh P vắng mặt không có lý do, chứng tỏ anh không có thiện chí để hàn gắn trong khi thời gian ly thân đã lâu.

Từ những phân tích trên, thấy rằng hôn nhân giữa chị V và anh P đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị V đối với anh P là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung và cấp dưỡng: Chị V và anh P thống nhất có 01 con chung tên Nguyễn L, sinh ngày 19/11/2012. Từ khi ly thân đến nay, chị V là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Chị V và anh P đều có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung.

Xét thấy, từ khi ly thân đến nay, chị V là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của con chung, hiện tại thu nhập thực tế của chị V là 7.000.000 đồng/tháng cũng đủ để đảm bảo cuộc sống cho con chung. Do đó, để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển ổn định của con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng cần tiếp tục giao con chung cho chị V nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chị V không yêu cầu anh P cấp dưỡng đối với con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Chị V và anh P thống nhất trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Chị Đỗ Hồng V phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, 273, 483, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84, 110, 116 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Hồng V đối với anh Nguyễn Ngọc P về việc “Ly hôn”. Chị Đỗ Hồng V được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc P.

2. Về con chung: Chị Đỗ Hồng V được quyền tiếp tục nuôi 01 con chung tên Nguyễn L, sinh ngày 19/11/2012. Anh P không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị V không yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Chị Đỗ Hồng V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0003758 ngày 14/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 04/03/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:14/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;