TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 140 /2018/HS-ST NGÀY 21/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 21 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 136/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 137/2018/QĐXXST-HS ngày 08/11/2018, đối với bị cáo:
Đinh Công G (tên gọi khác: V), sinh ngày 31/8/1984, tại tỉnh Tuyên Quang; Nơi cư trú: Tổ 16, phường M, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; quốc tịch: Việt nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Đinh Văn T (đã chết) và bà Hà Thị L, sinh năm 1957; có vợ là Hoàng Thị B, sinh năm 1983 (đã ly hôn năm 2015); con có 01 con sinh năm 2011; Tiền án: Ngày 18/3/2015 Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 14/2015/HSST); ngày 21/7/2015 Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 01 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bản án số 57/2015/HSST); ngày 24/8/2017 Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản chấp hành xong án phạt tù ngày 24/02/2018 (Bản án số 109/2017/HSST); Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 03/3/2008 Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Tuyên Quang, xử phạt 15 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bản án số 16/2008/HSST). Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/9/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.
* Bị hại: anh Đinh Xuân T, sinh năm 1981.
Trú tại: Tổ 16, phường M, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Hà Thị L, sinh năm 1956
Trú tại: Tổ 16, phường M, thành phố T, tỉnh T. Có mặt.
2. Anh Trần Mạnh H (tên thường gọi là D), sinh năm 1976.
Trú tại: Tổ 16, phường M, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 25/6/2018, Đinh Công G đang ở nhà thì anh Đinh Xuân T (anh trai bị cáo, ở cùng nhà) đi làm về, để chiếc đồng hồ đeo tay nhãn hiệu ORIENT - WATER RESIST 50m, vỏ bằng kim loại màu trắng sáng ánh kim lên trên nóc tủ kệ gỗ ở gian khách của tầng 1, sau đó đưa con trai là Đinh Xuân T1, sinh năm 2015 đi ra ngoài cắt tóc. Thấy không có ai ở nhà, bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp chiếc đồng hồ, bị cáo liền lấy giấu vào túi quần đang mặc, mang đến nhà anh Trần Mạnh H (tên thường gọi là D) trú tại tổ 16, phường M, thành phố Tuyên Q, cầm cố vay anh H số tiền 500.000đ. Sau đó, G đi đến khu vực bến xe khách thành phố Tuyên Quang tìm mua ma túy để sử dụng, tại đây G đã mua của một người đàn ông (không biết họ tên, địa chỉ nơi ở) 01 gói ma túy với số tiền 200.000đ về sử dụng. Số tiền còn lại, bị cáo G đã chi tiêu cá nhân hết.
Ngày 26/6/2018, Công an phường Minh Xuân phối hợp với Trạm y tếphường tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Đinh Công G, kết quả dương tính (+), có chất ma túy trong cơ thể G.
Ngày 30/6/2018, Đinh Công G cùng mẹ là bà Hà Thị L đến nhà anh Trần Mạnh H, trả 500.000 đồng cho anh H để nhận lại chiếc đồng hồ trên trả cho anh T.
- Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ: 01 chiếc đồng hồ đeo tay nhãn hiệu ORIENT - WATER RESIST 50m do anh Đinh Xuân T giao nộp.
Tại Bản Kết luận số 74 ngày 13/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Tuyên Quang, kết luận: Giá trị đồng hồ đeo tay nhãn hiệu ORIENT - WATER RESIST 50m là 4.370.000 đồng.
Ngày 13/8/2018, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc đồng hồ trên cho anh Đinh Xuân T.
Bản cáo trạng số 138/CT-VKSTP ngày 07/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo Đinh Công G về tội: Trộm cắp tài sản, theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Đinh Công G theo nội dung bản cáo trạng và đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Đinh Công G phạm tội “Trộm cắp tài sản”; đề nghị áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Đinh Công G từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo; buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá tài sản, bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.
Kết thúc phần tranh luận, bị cáo Đinh Công G nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Công G tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; biên bản xác minh, bản ảnh hiện trường; Bản kết luận định giá tài sản; lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 25/6/2018, tại tổ 16, phường M, thành phố T, tỉnh T. Đinh Công G đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc đồng hồ đeo tay nhãn hiệu ORIENT-WATER RESIST 50m, trị giá 4.370.000đ (Bốn triệu ba trăm bảy mươi nghìn đồng) của anh Đinh Xuân T, trú tại tổ 16, phường M, thành phố T.
Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại cho bị hại nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân về tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực pháp luật và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, song do bản tính lười lao động, để có tiền chi tiêu cá nhân bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo có nhân thân xấu và đang có 03 tiền án chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên cần thiết phải xử bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt và phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Anh Đinh Xuân T, anh Trần Mạnh H và bà Hà Thị L không ai có yêu cầu về phần dân sự đối với bị cáo Đinh Công G nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Đối với người đàn ông theo Đinh Công G khai đã bán ma tuý cho Giang tại ở khu vực bến xe khách Tuyên Quang, do không biết họ tên, địa chỉ nơi ở cụ thể nên không có căn cứ xác minh điều tra xử lý. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của Đinh Công G, ngày 19/7/2018 Công an thành phố Tuyên Quang đã ra Quyết định xử phạt hành chính, phạt tiền 750.000 đồng, xét thấy có căn cứ và phù hợp quy định pháp luật nên HĐXX không xem xét.
[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[10] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Đinh Công G (tên gọi khác: V) phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Xử phạt: Bị cáo Đinh Công G 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 10/9/2018.
Căn cứ vào: Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội. Bị cáo Đinh Công G phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Đinh Công G; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – bà Hà Thị L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bị hại – anh Đinh Xuân T; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – anh Nguyễn Mạnh H (tức D) được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 140/2018/HS-ST ngày 21/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 140/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về