Bản án 135/2021/HS-ST ngày 06/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 135/2021/HS-ST NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 139/2021/HSST ngày 19 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 141/2021/QĐXXST - HS ngày 26 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Lù A L (tên gọi khác: Không), sinh năm 1943. Nơi sinh tại huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.

Nơi ở và ĐKHKTT: Bản NL, xã CS, huyện BY, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Trình độ văn hoá (học vấn): Không biết chữ; Dân tộc: Mông; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Đảng phái: Không. Con ông: Lù A K (đã chết); con bà Giàng Thị M (đã chết); Vợ là Giàng Thị K và có 11 con, con lớn sinh năm 1966, con nhỏ sinh năm 1990. Tiền sự, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2020 cho đến ngày 20/01/2021 được áp dụng biện pháp bảo lĩnh tại ngoại tại địa phương cho đến nay có mặt tại phiên toà.

2. Lù A T (tên gọi khác: Lù A D), sinh năm 1980. Nơi sinh tại huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La.

Nơi ở và ĐKHKTT: Bản NL, xã CS, huyện BY, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Trình độ văn hoá (học vấn): Không biết chữ; Dân tộc: Mông; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Đảng phái: Không. Con ông: Lù A C (đã chết); con bà Mùa Thị C, sinh năm 1955; Vợ là Thào Thị T và có 06 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo bản án số: 53/2011/HSST ngày 28/6/2011.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2020 cho đến nay có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lù A H, sinh năm 1994, trú tại Bản NL, xã CS, huyện BY, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 00 phút ngày 22/12/2020 tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại tiểu khu Pa Khen, thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, qua kiểm tra phát hiện bắt quả tang Lù A L và Lù A T có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu đen bên trong có chứa cục chất bột màu trắng (L và T khai nhận là Heroine). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ niêm phong vật chứng; ngoài ra tạm giữ của T 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 29K1 - 189.19.

Cùng ngày Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu phối hợp Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và phòng K ỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã T hành mở niêm phong, cân tịnh lấy mẫu trưng cầu giám định: 01 gói nilon thu giữ chứa cục chất bột màu trắng có khối lượng 5,31 gam, tại kết luận giám định số 89 ngày 25/12/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết quả giám định là ma túy loại Heroine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai nhận: Lù A L và Lù A T có quan hệ họ hàng và ở cùng bản. Khoảng 06 giờ 50 phút, ngày 22/12/2020 Lù A L đến nhà Lù A T để rủ T đi mua ma túy sử dụng, T đồng ý. T sang nhà em trai Lù A Hồ mượn xe mô tô và điểu khiển trở L sang khu vực tiểu khu Pa Khen, thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu thì gặp và hỏi mua được của người phụ nữa dân tộc Mông không quen biết 01 gói nilon màu đen bên trong chứa Heroine với giá 5.000.000 đồng, có được ma túy L cầm gói ma túy tại lòng bàn tay trái ngồi sau xe T điều khiển xe đi về được một đoạn thuộc tiểu khu Pa Khen, thị trấn Nông Trường Mộc Châu thì bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu, kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Do các hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số 80/CT-VKS ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã truy tố các bị cáo Lù A L và Lù A T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu sau khi phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của từng bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị HĐXX:

- Tuyên bố các bị cáo Lù A L và Lù A T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s, o khoản 1, 2 Điều 51, 54 và Điều 58 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Lù A L từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù.

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Lù A T từ 05 năm tù đến 05 năm 06 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2,3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 4,99 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, mảnh nilon màu đen và phong bì niêm phong ban đầu; 02 phong bì niêm phong chứa các que thử ma túy.

- Chấp nhận cơ quan điều tra trả lại cho anh Lù A Hồ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS: 29k1 -189.19.

- Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 Miễn án phí cho các bị cáo.

Tại phần tranh luận: Các bị cáo, người liên quan không có ý kiến tranh luận, nhất trí với quan điểm của kiểm sát viên. Trong lời nói sau cùng các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Lù A L, Lù A T đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong tố tụng hình sự. Căn cứ vào diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận, lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu có trong hồ sơ các bị cáo, người liên quan không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 22/12/2020, tại tiểu khu Pa Khen, thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La Lù A L và Lù A T có hành vi Tàng trữ trái phép 5,31 gam ma túy loại Heroine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của Lù A L và Lù A T đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố Lù A L và Lù A T là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét về khung hình phạt áp dụng đối với các bị cáo và mức độ của hành vi phạm tội của các bị cáo: Các bị cáo có hành vi tàng trữ 5,31 gam Heroine đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt theo điểm g “Heroine, Cocaine....có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù. Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, mặc dù nhận thức được mọi hành vi liên quan đến chất ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo đồng thời giúp các bị cáo từ bỏ chất ma túy trở thành người có ích cho gia đình và xã hội và đảm bảo biện pháp răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Xét về vai trò đồng phạm các bị cáo: Các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, đối với bị cáo Lù A L là người khởi sướng rủ rê, bỏ tiền ra mua ma túy và cùng giao dịch mua bán ma túy nên giữ vai trò chính trong vụ án; bị cáo Lù A T mượn phương tiện (xe mô tô) trở bị cáo L và cùng nhau đi mua ma túy về sử dụng với vai trò đồng phạm giúp sức tích cực.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân các bị cáo: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nhận tội và các bị cáo là dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hiểu biết pháp luật hạn chế. Nên được hưởng chung tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lù A L khi phạm tội bị cáo trên 70 tuổi đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm o khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo Lù A T đã từng có 01 tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân, từ bỏ chất ma túy để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội nay tiếp tục phạm tội mới. Do đó cần cân nhắc khi quyết định hình phạt cần có mức án tương xứng với tính chất mức độ của từng bị cáo, để cải tạo, giáo dục các bị cáo. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Xét về mức án đề nghị của Viện kiểm sát đối với bị cáo Lù A L đề nghị HDXX áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo: HĐXX xét thấy bị cáo Lù A L là người cao tuổi (tính đến nay đã 78 tuổi) và có 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần chấp nhận.

[7] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra các bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy đinh tai khoan 5 Điêu 249 Bộ luật Hình sự, xét thấy các bị cáo đều có hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản có giá trị đều là đối tượng nghiện chất ma túy nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[8] Về vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 4,99 gam Heroine và vỏ phong bì niêm phong ban đầu + vỏ gói ban đầu; 02 phong bì niêm phong chứa các que thử ma túy là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với Xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS 29K1- 189.19, qua tra cứu, xác minh xe thuộc tài sản hợp pháp của anh Lù A H, trú tại Bản NL, xã CS, huyện BY, tỉnh Sơn La (là em trai ruột bị cáo T). Khi mượn xe anh Hồ không biết, không liên quan đến việc phạm tội, nên ngày 13/3/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trao trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Lù A H quản lý sử dụng, sử dụng, anh H đã nhận lại tài sản không có ý kiến gì nên cần chấp nhận. [9] Về nguồn gốc chất ma túy.

- Đối với người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết đã bán ma túy cho các bị cáo ngày 22/12/2020. Quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, ngoài lời khai các bị cáo ra không có căn cứ khác. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra làm rõ.

- Thời hạn tạm giam của bị cáo Lù A T còn dưới 45 ngày, Hội đồng xét xử cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[10] Về án phí: Các bị cáo Lù A L, Lù A T có hoàn cảnh kinh tế khó khăn thuộc dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và bị cáo L là người cao tuổi nên được miễn án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s, o khoản 1, khoản 2 Điều 51, 54 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lù A L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lù A L 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, được khấu trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam (từ 22/12/2020 đến ngày 20/01/2021) là 30 ngày. Bị cáo còn phải chấp hành tiếp hình phạt là 03 (ba) năm 05 (năm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại thụ hình.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, 58 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lù A T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lù A T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 22/12/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 4,99 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, mảnh nilon màu đen và phong bì niêm phong ban đầu; 02 phong bì niêm phong chứa các que thử ma túy.

- Chấp nhận cơ quan điều tra trả lại cho anh Lù A H 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS 29K1 - 189.19.

(Tang vật đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La theo biên bản giao nhận vật chứng, ngày 23 tháng 4 năm 2021).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Lù A L và Lù A T.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (06/5/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 135/2021/HS-ST ngày 06/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:135/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;