Bản án 134/2021/HSST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 134/2021/HSST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 123/2021/HSST ngày 22/3/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn L, tên gọi khác: không; sinh ngày 17 tháng 5 năm 1989; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 21, phường P, thành phố T,tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp:Không; trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Xuân H và con bà Hứa Thị C; Vợ, con: Chưa có.

- Tiền án: Tại Bản án số 115/2017/HSST ngày 14/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 30 tháng tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Ra trại ngày 30/01/2019.

- Tiền sự : Không - Nhân thân: Tại Bản án số 16/2012/HSST ngày 23/3/2012 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội “ Cướp tài sản”. Ra trại ngày 11/02/2013. Nộp án phí ngày 04/5/2012.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam giam từ ngày 06/01/2021 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.

(Có mặt tại phiên toà).

* Người chứng kiến: Ông Vũ Quang M, sinh năm 1961, trú tại: Tổ 04, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Trường Giang, sinh năm 1997, ĐKHKTT: Tổ 21, phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. (Có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 ngày 06/01/2021, tổ công tác của Công an phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 2 của phường đã phát hiện 01 nam thanh niên đi xe mô tô BKS 20B1 – 714.52, có biểu hiện liên quan đến cất giấu ma túy. Tổ công tác đã yêu cầu đứng lại kiểm tra, nam thanh niên khai tên là Nguyễn Văn L. Quá trình kiểm tra L đã tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng(L khai là Heroine). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ 01 xe mô tô BKS 20B1 – 714.52.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng chất bột màu trắng thu giữ được của L có khối lượng là 0, 196 gam.

Tại bản kết luận giám định số 222/KL – KTHS ngày 15/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ được của L ngày 06/01/2021 gửi đến giám định là chất ma túy loại Heroine, có khối lượng ban đầu là 0,196 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn L khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 06/01/2021, L điều khiển xe mô tô BKS 20B1 – 714.52 đi từ nhà đến khu vực phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên với mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Khi đến nơi L gặp một người đàn ông không quen biết, qua giao dịch L mua của người đàn ông đó 01 gói Heroine được gói bằng giấy màu trắng với giá 100.000 đồng. Sau khi mua xong L cầm gói Heroine ở tay trái rồi đi tìm chỗ vắng người qua lại để sử dụng. Khi đến khu vực tổ 2, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên thì bị tổ công tác của Công an phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Lời khai của Nguyễn Văn L phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ và kết luận giám định.

Vật chứng của vụ án: 01 xe mô tô BKS 20B1- 714.52, quá trình điều tra xác định chiếc xe là tài sản của anh Nguyễn Trường Giang, sinh năm 1997, trú tại tổ 21, phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên. Anh Giang không biết L sử dụng để đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã không xử lý gì với anh Giang và trả chiếc chiếc xe cho anh Giang là chủ sở hữu quản lý sử dụng;

01 phong bì niêm phong ký hiệu L, hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

Tại bản cáo trạng số 121/CT-VKSTPTN ngày 18/3/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã quyết định truy tố Nguyễn Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên giữ quyền công tố đã trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Văn L phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51, Điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L: Từ 30 đến 36 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu L. Bì niêm phong chứa 0,185 gam mẫu L còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước;

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố xét xử là không oan, đúng người, đúng tội. Lời nói sau cùng của bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án nhẹ nhất, để sớm trở về là người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn L và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn L thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến,người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan với vật chứng đã thu được, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Hồi 13 giờ ngày 06/01/2021, tại tổ 2, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên, Nguyễn Văn L đang có hành vi tàng trữ 0,196 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi, ý thức của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3]. Bản cáo trạng số 121/CT-VKSTPTN ngày 18/3/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)...

c) Heroine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi: Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội, nhưng do không làm chủ được bản thân nên đã dẫn đến phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xét xử bằng pháp luật hình sự và có một mức án phù hợp, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm. Như vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ Luật hình sự.

[6] Về hình phạt: Để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nên Hội đồng xét xử giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo tốt, sớm trở về với gia đình và xã hội và cũng là thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị trong phần luận tội là phù hợp.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu L. Bì niêm phong chứa 0,185 gam mẫu L còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu. Trên mặt phong bì niêm phong có 03 dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Trần Đức Thủy và Ma Triệu Vũ.

[9].Án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước; Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10].Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ L khai mua của một đàn ông không quen biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra không đủ cơ sở để điều tra làm rõ, xử lý.

Trong vụ án có anh Nguyễn Trường Giang là chủ chiếc xe 20B1 – 714.52 là người đã cho L sử dụng chiếc xe nhưng anh Giang không biết L đã sử dụng xe để đi mua Heroine nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không xử lý gì là có căn cứ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

1/ Xử phạt: Nguyễn Văn L 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 06/01/2021; Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Văn L 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3/ Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu L. Bì niêm phong chứa 0,185 gam mẫu L còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu. Trên mặt phong bì niêm phong có 03 dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Trần Đức Thủy và Ma Triệu Vũ.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 271 ngày 25/3/2021 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

4/ Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326 của UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

5/ Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm,có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 134/2021/HSST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:134/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;