Bản án 132/2020/HSST ngày 14/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 132/2020/HSST NGÀY 14/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 137/2020/HSST ngày 26 tháng 8 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2020/QĐST-HS ngày 03 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn C - sinh năm: 1986 (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc C).

Giới tính: Nam.

Nơi ĐKHKTT và cư trú tại: Số nhà A1, ngõ F, đường TN, tổ dân phố TN, phường TP, thành phố BG, tỉnh Bắc Giang Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động Tự do; Văn hóa: 2/12; Con ông: Nguyễn Ngọc Nh, sinh năm: 1958 và bà: Phạm Thị Th, sinh năm: 1954. Có 03 anh em, bị cáo là thứ hai. Vợ, con: chưa có.

- Tiền án:

+ Bản án số 28/2011/HSST ngày 09/3/2011, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/3/2013.

+ Bản án số 42/2015/HSST ngày 13/4/2015, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang xử phạt 01 năm 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản trộm cắp có giá trị 14.000.000 đồng. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2016.

+ Bản án số 179/2017/HSST ngày 20/12/2017, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản trộm cắp có giá trị 244.800 đồng. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/8/2018.

- Tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Bản án số 123/2005/HSST ngày 28/6/2005, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

+ Quyết định số 17/2016/QĐ-TA ngày 10/11/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang áp dụng biện pháp của lý hành chính đưa bị cáo đi cai nghiện bắt buộc.

- Bị cáo bị bắt khẩn cấp, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/5/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang.

Có mặt tại phiên tòa.

*Bị hại:

1. Chị Phan Thị H, sinh năm 1980 (vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà A1, đường NĐ, Phường TX, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Vũ Minh Đ, sinh năm 1986 (vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà A2, đường LL, Phường DK, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

2. Anh Phạm Hà B, sinh năm: 1986 (vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà A3, đường ĐTN, Phường NQ, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn C (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc C), sinh năm 1986 cư trú tại số nhà A, ngõ F, đường TN, tổ dân phố TN, phường TP, thành phố BG , tỉnh Bắc Giang là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp. Khoảng 00 giờ ngày 19/5/2020, C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98M2 - 1354, nhãn hiệu JONQUIL màu sơn nâu, mang theo một chiếc kìm cộng lực màu đen đi từ nhà qua các tuyến đường quanh khu vực thành phố Bắc Giang, mục đích tìm tài sản để trộm cắp. Khi đi qua ki ốt số 01 thuộc khu nhà trụ sở Liên minh hợp tác xã tỉnh Bắc Giang trên đường Vương Văn Trà, phường Trần Phú, thành phố Bắc Giang, C thấy ki ốt khóa ngoài, C đỗ xe lại và dùng kìm cộng lực cắt đứt tai khóa cửa sắt của ki ốt. C đi vào trong ki ốt và lần lượt trộm cắp các tài sản gồm 01 chiếc quạt cây công nghiệp nhãn hiệu “Chinghai” màu đen; 04 chiếc bàn inox màu trắng, mặt hình chữ nhật có kích thước (70x140)cm; 02 nồi cơm điện, dạng nồi công nghiệp, nhãn hiệu Cuckoo, màu đen trắng; 26 chiếc ghế bằng inox màu trắng, mặt ghế hình tròn; 01 bao tải gạo, C đem toàn bộ số tài sản trên về nhà cất giấu, số gạo thì đổ vào trong thùng gạo của gia đình để sử dụng, sau đó C đi ngủ. Khoảng 08 giờ ngày 19/5/2020 C ngủ dậy, sau đó dùng xe mô tô chở 03 chiếc bàn inox trộm cắp được đến cửa hàng thu mua sắt vụn của anh Vũ Minh Đ, sinh năm 1986 ở số nhà A2, đường LL, Phường DK, thành phố Bắc Giang bán được 320.000 đồng. Số tiền này C khai đã đi mua ma túy của người không quen biết ở khu bờ đề Chi ly, phường Trần Phú, sau đó đến công viên Ngô Gia Tự để sử dụng. Tại công viên, C gặp đối tượng tên H1 là bạn nghiện nhưng C không biết họ, địa chỉ cụ thể, C đã nhờ H bán hộ số tài sản mình trộm cắp được, H1 đồng ý. Sau đó, H1 đã sử dụng xe mô tô của C chở 01 chiếc quạt công nghiệp, 02 chiếc nồi cơm điện; 01 bàn inox và số ghế đem đi bán, C giữ lại 02 chiếc ghế inox để sử dụng. Sau khi bán xong H1 đưa cho C số tiền 1.400.000 đồng, C cho H1 600.000 đồng, còn lại 800.000 đồng C sử dụng ăn tiêu hết.

Số tài sản C trộm cắp tại ki ốt số 01, khu liên minh hợp tác xã tỉnh Bắc Giang là của chị Phan Thị H, sinh năm 1980 có địa chỉ ở số nhà Số nhà A1, đường NĐ, Phường TX, thành phố Bắc Giang. Sau khi phát hiện sự việc, chị H đã làm đơn trình báo công an thành phố Bắc Giang. Ngày 23/5/2020 Công an thành phố Bắc Giang đã bắt khẩn cấp đối với Nguyễn Văn C, thu giữ các tài sản gồm:

01 xe mô tô biển kiểm soát 98M2 - 1354, nhãn hiệu JONQUIL màu sơn nâu, 01 mũ bảo hiểm màu đen dạng mũ lưỡi chai nửa đầu, 01 kìm cộng lực màu đen, 02 ghế inox, 31 kg gạo.

Tại kết luận định giá tài sản số 273/KL-HĐĐG ngày 25/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Bắc Giang kết luận: “01 chiếc quạt cây công nghiệp màu đen, nhãn hiệu “Chinghai” đã qua sử dụng trị giá 500.000 đồng; 26 chiếc ghế bằng inox màu trắng, mặt ghế hình tròn, đường kính 26cm, đường kính đế 39cm, loại ghế 04 chân, cao 45cm đã qua sử dụng trị giá 30.000 đồng/01 chiếc x 26 chiếc = 780.000 đồng; 04 chiếc bàn màu inox màu trắng, mặt bàn hình chữ nhật, đường kính (70x 140)cm, loại bàn 04 chân, cao 70cm, đã qua sử dụng trị giá 300.000 đồng/01 chiếc x 4 chiếc = 1.200.000 đồng;

02 nồi cơm điện nhãn hiệu Cuckoo màu đen trắng đã qua sử dụng trị giá 2.000.000 đồng/01 chiếc x 2 chiếc = 4.000.000 đồng; 01 bao tải gạo nặng 50 kg (gồm 12 kg gạo bê cê; 38 kg gạo hầm trâu siêu) trị giá 500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị trộm cắp là 6.980.000 đồng”.

Bản cáo trạng số 141/CT-VKS ngày 21/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn C (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc C) về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xác định đủ căn cứ chứng minh bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” và vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố. Đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc C) phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm g khoản 1 điều 173, Điểm s khoản 1 điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi bổ sung, xử phạt bị cáo từ 02 (hai) năm 03 (ba) tháng đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 23/5/2020; Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điều 48 BLHS, các điều 584, 585, 587, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015. Buộc bị cáo bồi thường cho chị Phan Thị H số tiền 5.000.000 đồng.

Về vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị: Tịch thu tiêu hủy: 01 kìm cộng lực bằng kim loại, màu đen, dài 91 cm đã qua sử dụng; 01 mũ bảo hiểm dạng nửa đầu, màu đen đã qua sử dụng.

Trả lại cho anh Phạm Hà B 01 chiếc xe mô tô tô, nhãn hiệu JONQUIL màu sơn nâu, biển kiểm soát 98M2 - 1354.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hinh sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa: Bị cáo C thừa nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp các tài sản tại ki ốt số 01 khu liên minh hợp tác xã tỉnh Bắc Giang vào đêm ngày 19/5/2020 như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang đã nêu. Bị cáo xác định cáo trạng đã tuy tố bị cáo đúng người, đúng tội, không oan, sai. Bị cáo xin lỗi người bị hại, đồng ý chịu trách nhiệm bồi tH cho người bị hại số tiền 5.000.000 đồng. Bị cáo không tranh luận gì, đề nghị HĐXX xem xét cho được hưởng mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. HĐXX đánh giá các hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án là hợp pháp.

Về sự vắng mặt của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho chị H, anh Đ, anh B, song tại phiên tòa những người này vắng mặt. Kiểm sát viên, bị cáo đều đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vụ án, xét thấy sự vắng mặt của người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử vụ án nên HĐXX căn cứ điều 292 BLTTHS tiếp tục xét xử.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn C tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Lời khai của bị cáo còn được chứng minh bằng các chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra như biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra, hình ảnh từ trích xuất camera an ninh, vật chứng thu giữ được tại nhà bị cáo. Từ các tài liệu, chứng cứ thu được trong quá trình điều tra đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ xác định trong khoảng thời gian từ 2 giờ 30 phút đến 3 giờ 10 phút ngày 19/5/2020, tại ki ốt số 01 Khu liên minh hợp tác xã Bắc Giang ở đường Vương Văn Trà, phường Trần Phú, thành phố Bắc Giang, Nguyễn Văn C (còn có tên gọi khác là Nguyễn Ngọc C) đã trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của chị Phan Thị H, tài sản C đã trộm cắp được gồm có:

01 chiếc quạt cây công nghiệp nhãn hiệu “Chinghai”, 04 chiếc bàn bằng inox, mặt bàn hình chữ nhật; 26 chiếc ghế bằng inox, mặt ghế hình tròn; 02 nồi cơm điện nhãn hiệu Cuckoo (đều đã qua sử dụng) và 01 bao gạo nặng 50 kg. Tổng giá trị tài sản C trộm cắp đã được định giá là 6.980.000 đồng (sáu triệu chín trăm tám mươi nghìn đồng).

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo là cố ý, xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, xâm phạm vào trật tự an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Trước khi phạm tội lần này, bị cáo đã nhiều lần bị Tòa án xét xử, trong đó có 01 bản án về tội “Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy” năm 2011, 01 bản án về tội “Trộm cắp tài sản” năm 2015, 01 bản án về tội “Trộm cắp tài sản” đến nay đều chưa được xóa án tích, do đó lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” được xem xét là tình tiết định khung hình phạt, VKSND Thành phố Bắc Giang truy tố bị cáo theo điểm g khoản 2 điều 173 Bộ luật hình sự 2015 đã sửa đổi, bổ sung là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, bị nghiện ma túy đã được áp dụng biện pháp đưa đi cai nghiện và nhiều lần đã bị Tòa án xét xử, đã đi chấp hành hình phạt tù, nhưng không cải sửa bản thân thành công dân tốt, lại tiếp tục phạm tội.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS theo khoản 1 điều 52 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.

Từ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên, xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, HĐXX cân nhắc một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, buộc bị cáo cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội với mục đích tư lợi, ngoài hình phạt chính lẽ ra áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự, tuy nhiên hiện nay bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản, nghiện ma túy, nên HĐXX xét miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại là chị Phan Thị H đã được cơ quan điều tra trả lại 02 chiếc ghế Inox và 31 kg gạo, chị H yêu cầu bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi tH về tài sản với số tiền 5.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí sẽ bồi tH cho chị H theo yêu cầu này. HĐXX xét thấy yêu cầu của chị H là có cơ sở nên căn cứ điều 48 BLHS năm 2015, các điều 584, 585, 587, 589 BLDS năm 2015, buộc bị cáo bồi tH số tiền trên cho chị H.

[6]. Về vật chứng thu giữ: Căn cứ điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 kìm cộng lực bằng kim loại, màu đen, dài 91 cm đã qua sử dụng;

01 mũ bảo hiểm dạng nửa đầu, màu đen đã qua sử dụng của bị cáo đã sử dụng đi trộm cắp tài sản, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe mô tô tô, nhãn hiệu JONQUIL màu sơn nâu, biển kiểm soát 98M2 - 1354, bị cáo đã sử dụng đi trộm cắp tài sản, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định đây là tài sản của anh Phạm Hà B cho C mượn để sử dụng đi làm, khi C sử dụng xe đi trộm cắp tài sản, anh B không biết, nên HĐXX xét trả lại cho anh Phạm Hà B.

[7]. Đối với anh Vũ Minh Đ là người mua 03 chiếc bàn inox của C, quá trình mua tài sản anh Đ không biết đây là tài sản trộm cắp mà có, cơ quan điều cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Giang, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang xác định không có căn cứ xử lý hình sự đối với anh Đ là phù hợp.

Đối với đối tượng tên H1 là người đã giúp C đi bán một số tài sản trộm cắp, C khai chỉ biết tên H1, sinh năm 1987 có địa chỉ tại tổ dân phố TG, phường Lê Lợi, thành phố Bắc Giang, song không rõ họ tên, nơi ở chính xác của đối tượng này. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không có đối tượng như C khai, nên xác định không có căn cứ xử lý. Tại phiên tòa, C vẫn xác định chỉ gặp Hưng hai lần khi cùng hút ma túy, không biết nhà H1 ở đâu, nên không có căn cứ để xem xét, xử lý H1 theo quy định.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc C) phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Về điều luật, mức hình phạt áp dụng:

Căn cứ điểm g khoản 2 điều 173; Điểm s khoản 1 điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 48 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi bổ sung. Căn cứ các điều 584, 585, 587, 589 BLDS năm 2015; Khoản 2 điều 106; 135, 136; 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, 23, 26 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBNTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc C) 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 23/5/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Văn C (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc C) phải bồi thường cho chị Phan Thị H số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng).

4. Về xử lý vật chứng:

Trả lại cho anh Phạm Hà B 01 xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu JONQUIL màu sơn nâu, biển kiểm soát 98M2 - 1354, số máy 000885, số khung 000885.

Tịch thu tiêu hủy: 01 kìm cộng lực bằng kim loại màu đen, dài 91 cm đã qua sử dụng; 01 mũ bảo hiểm nửa đầu, màu đen đã qua sử dụng.

5. Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất 10%/năm tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 132/2020/HSST ngày 14/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:132/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;