Bản án 13/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22/4/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đắk Mil mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 14/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Thanh T; sinh năm 1992; tại: tỉnh Bình Định; nơi đăng ký HKTT và trú tại: thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đăk Nông; nghề nghiệp: thợ sơn; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn L, sinh năm 1970 và bà Phạm Thị G, sinh năm 1970; trú tại: thôn Đ, xã L, huyện M, tỉnh Đăk Nông; Bị cáo có vợ là Phan Thị X – sinh năm 1994 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2012;

tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2020 - Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Đỗ Thị P – sinh năm 1956; Địa chỉ: TDP 1, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt.

- Anh Hồ Duy A – sinh năm 1996; Địa chỉ: TDP 1, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 22/12/2020, Lê Thanh T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu DAEHAN màu xanh, biển kiểm soát 48E1 – 144.49 (xe của bà Đỗ Thị P, sinh năm 1956, trú tổ dân phố 1, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đắk Nông) đi đến quán cà phê Du Xanh ở tổ dân phố 5, thị trấn M, huyện M để uống cà phê. Tại quán cà phê, T gặp một đối tượng nữ tên T1 (chưa rõ nhân thân, lý lịch), do có nhu cầu sử dụng ma túy và biết đối tượng nữ tên T1 có ma túy để bán nên Lê Thanh T đi đến hỏi mua ma túy thì đối tượng nữ tên T hẹn đầu giờ chiều đi đến khu vực nghĩa địa xã L thuộc thôn X, xã L, huyện M, tỉnh Đắk Nông để nhận ma túy.

Khoảng 13h00’ cùng ngày, Lê Thanh T một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 48E1 – 144.49 đi từ thị trấn M đến khu vực nghĩa địa xã L thuộc thôn X, xã L, huyện M gặp đối tượng nữ tên T1 mua 01 gói ma túy với số tiền 300.000 đồng mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, đối tượng nữ tên T đưa cho Lê Thanh T 02 gói ma túy được bỏ trong gói thuốc lá Jet và nhờ Lê Thanh T đi đến khu vực gần quán Karaoke Hello thuộc tổ dân phố 1, thị trấn M, huyện M giao cho một đối tượng không rõ nhân thân, lý lịch thì Lê Thanh T đồng ý và bỏ 03 gói ma túy vào trong túi áo khoác, rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 48E1 – 144.49 đến khu vực gần quán Karaoke Hello để giao ma túy hộ T1. Khi đến nơi Lê Thanh T đợi một lúc nhưng không có ai đến nhận ma túy nên Lê Thanh T điều xe mô tô biển kiểm soát 48E1 – 144.49 đi đến khu vực công ty P, thuộc thôn T, xã N, huyện M gặp một đối tượng tên Tèo (không rõ nhân thân, lý lịch) để cùng nhau sử dụng ma túy (Tèo cũng là đối tượng nghiện ma túy).

Lúc 14h10’ cùng ngày, khi Lê Thanh T đang đưa ma túy cho đối tượng tên Tèo để cùng nhau sử dụng thì bị lực lượng Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông phát hiện và bắt quả tang Lê Thanh T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, còn đối tượng tên Tèo bỏ chạy thoát.

Vật chứng thu giữ gồm: 03 gói nilon trong suốt, bên trong có chứa những hạt tinh thể màu trắng (nghi là ma túy đá); 01 xe mô tô nhãn hiệu DAEHAN màu xanh, biển kiểm soát 48E1 – 144.49.

Tại Kết luận giám định số 183/KLMT-PC09 ngày 27/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: - Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nilon trong suốt được niêm phong trong bì thư ký hiệu số 01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,1567 gam; là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định có khối lượng là 0,1206 gam).

- Tinh thể màu trắng đựng trong 02 gói nilon trong suốt được niêm phong trong bì thư ký hiệu số 02 gửi giám định đều là ma túy, có khối lượng là 0,3424 gam; là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định có khối lượng là 0,2678 gam) Tại bản cáo trạng số: 14/Ctr-VKS ngày 25 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Mil đã truy tố bị cáo Lê Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thanh T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng truy tố.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông sau khi phân tích tính chất vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 294 BLHS và đề nghị HĐXX:

Tuyên bố bị cáo Lê Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của BLHS xử phạt bị cáo Lê Thanh T mức án từ 15 đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự  2015; Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự  đề nghị:

- Đối với 0,3884 gam Methamphetamine (hoàn lại sau giám định), là vật chứng vụ án đề nghị tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật.

- Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil đã trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu DAEHAN màu xanh, biển kiểm soát 48E1 – 144.49 cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Đỗ Thị P Đối với đối tượng nữ tên T1 là người bán ma túy cho Lê Thanh T. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với đối tượng tên Tèo là người được Lê Thanh T rủ cùng sử dụng ma túy (Tèo là đối tượng nghiện ma túy). Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với anh Hồ Duy A cho bị cáo Lê Thanh T mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu DAEHAN màu xanh, biển kiểm soát 48E1 – 144.49 để đi lại. Việc T sử dụng chiếc xe mô tô này để đi mua ma túy thì anh Hồ Duy A không biết, do đó không xem xét xử lý.

Tại phiên toà, bị cáo không bào chữa, không tranh luận, chỉ xin Tòa án xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa; lời khai của bị cáo; lời khai của người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đắk Mil, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Mil, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc theo bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Mil đã truy tố, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xác định : Vào lúc 14h10p ngày 22/12/2020, tại khu vực công ty P, thuộc thôn T, xã N, huyện M, tỉnh Đắk Nông, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, đã phát hiện và bắt quả tang Lê Thanh T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,4991 gam ma túy là chất Methamphetamine với mục đích để sử dụng.

Xét quan điểm buộc tội và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Lê Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c)Heroine, côcain, Methamphetamine, ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3] Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là công dân có đầy đủ nhận thức để hiểu được tác hại của ma túy và những điều cấm của pháp luật đối với mọi hành vi phạm tội về ma túy. Song xuất phát từ việc nhằm thỏa mãn sự nghiện ngập của bản thân nên bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,4991 gam Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, làm gia tăng các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng. Trong thời gian gần đây tình trạng tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy ngày càng nghiêm trọng. Đây là một vấn nạn của xã hội chính từ ma túy mà nảy sinh nhiều loại tội phạm khác.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình; Do đó, cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Tuy nhiên cũng cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo học tập, cải tạo, trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[7] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015:

- Đối với 0,3884 gam Methamphetamine (hoàn lại sau giám định), là vật chứng vụ án cần tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật.

+ Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu DAEHAN màu xanh, biển kiểm soát 48E1 – 144.49 chủ sở hữu là bà Đỗ Thị P, do con trai bà P là anh Hồ Duy A- cho Lê Thanh T mượn. Bà P không biết, trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Mil đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe cho bà P là phù hợp với quy định pháp luật.

+ Đối với đối tượng nữ tên T là người bán ma túy cho Lê Thanh T. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

+ Đối với đối tượng tên Tèo là người được Lê Thanh T rủ cùng sử dụng ma túy (Tèo là đối tượng nghiện ma túy). Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

+ Đối với anh Hồ Duy A cho bị cáo Lê Thanh T mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu DAEHAN màu xanh, biển kiểm soát 48E1 – 144.49 để đi lại. Việc T sử dụng chiếc xe mô tô này để đi mua ma túy thì anh Hồ Duy A không biết, do đó không xem xét xử lý đối với anh Hồ Duy A.

[8] Về hình phạt bổ sung: bị cáo Lê Thanh T không có tài sản nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

1. Xử phạt: Lê Thanh T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/12/2020.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015:

+ Chấp nhận trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Mil đã ra quyết định xử lý vật chứng số 13 ngày 16/3/2021 trả lại xe mô tô DAEHAN màu xanh, biển kiểm soát 48E1 – 144.49 cho chủ sở hữu hợp pháp bà Đỗ Thị P.

+ Tịch thu tiêu hủy 0,3884 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Lê Thanh T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí HSST.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 13/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;