TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 35/2021/HS-ST NGÀY 06/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 06 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:26/2021/TLST - HS ngày 15 tháng 03 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn T; sinh ngày: 12/3/1990, tại huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên; nơi đăng ký HKTT: Thôn G, xã V, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên; chỗ ở: Tổ 1, khu 4B, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N và bà Bùi Thị N; có vợ là Lục Thị Q; chưa có con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt quả tang ngày 17/12/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cẩm Phả; có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Chị Lục Thị Q; sinh năm: 1988; nơi cư trú: Tổ 1, khu 4B, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.
Người chứng kiến:
- Ông Nguyễn Văn L; sinh năm: 1964; nơi cư trú: Tổ 3, khu N, phường B, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.
- Ông Phạm Văn H; sinh năm: 1955; nơi cư trú: Tổ 6, khu N, phường B, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 21 giờ ngày 17/12/2020, tại khu vực đường ngõ dân sinh thuộc tổ 5, khu M, phường B, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Công an thành phố Cẩm Phả bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng. Vật chứng thu giữ của T: T tự giác giao nộp 01 túi nilon đang cầm bên tay trái, có kích thước (4x6)cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, T khai nhận đó là ma túy đá; thu trong túi quần bên trái phía trước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh đen, màn hình bị vỡ nứt, bên trong lắp 02 sim, (sim 01 số 0965.055.189, sim 02 số 079.538.7973); thu trong túi quần bên phải phía trước số tiền 5.910.000 đồng (năm triệu một trăm chín mươi nghìn đồng).
Tại bản Kết luận giám định số 80/GĐMT ngày 24/12/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 0,549 gam (không phẩy năm trăm bốn chín gam).
Tại giai đoạn điều tra điều tra và tại phiên tòa Nguyễn Văn T khai nhận: T bắt đầu sử dụng ma túy đá từ đầu năm 2020, vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 17/12/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy đá, T đi quanh khu vực chân cầu vượt thuộc phường P, thành phố Cẩm Phả thì gặp và đã hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá của một người đàn ông khoảng 35 tuổi. Sau khi mua được ma túy, T bắt xe ôm đi đến khu vực gần nhà thờ phường Cẩm Tây rồi đi bộ vào trong ngõ đối diện nhà thờ thuộc tổ 5, khu M, phường B, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, tìm chỗ để sử dụng thì bị Công an đến kiểm tra và bắt quả tang thu giữ vật chứng nêu trên. T còn khai nhận: không biết người đàn ông đã bán ma túy cho mình là ai; mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân; nguồn gốc số tiền mua ma túy là do lao động mà có; đối với số tiền 5.910.000 đồng bị thu giữ là tiền của chị Lục Thị Q (vợ của T) đưa cho T để trả tiền thuê nhà trọ tại phường C; chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh đen, màn hình bị vỡ nứt lắp sim 01 số 0965.055.189, sim 02 số 079.538.7973, T dùng để liên lạc với gia đình, không liên quan đến hành vi phạm tội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, chị Lục Thị Q khai nhận: số tiền 5.910.000 đồng (năm triệu một trăm chín mươi nghìn đồng) là của Chị do lao động mà có, trước đó chị Q đã đưa cho T số tiền này để trả tiền thuê nhà. Trong giai đoạn điều tra, chị Q đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả trả lại số tiền trên nên chị Q không có ý kiến hoặc đề nghị gì khác về tài sản.
Những người chứng kiến nêu trên đều có lời khai về toàn bộ nội dung sự việc mình đã trực tiếp chứng kiến cơ quan Công an kiểm tra, phát hiện bị cáo tàng trữ ma túy trên người thì bị bắt, thu giữ những vật chứng và tài sản nêu trên.
Tại bản Cáo trạng số 34/CT-VKS-CP ngày 11 tháng 03 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị can Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 15 (mười lăm) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt (ngày 17/12/2020); không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định, được niêm phong trong 01 phong bì số 80/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh. Trả lại cho bị cáo: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh đen, màn hình bị vỡ nứt, bên trong lắp 02 sim (sim 01 số 0965.055.189, sim 02 số 079.538.7973).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến nêu trên khai báo mình trực tiếp chứng kiến sự việc bị cáo tàng trữ ma tuý trên người thì bị bắt quả tang. Quá trình thu giữ, niêm phong, bảo quản, giao nhận vật chứng và giám định đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, đảm bảo khách quan, trung thực và có cơ sở khoa học, phù hợp với bản Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh cùng những tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 17/12/2020, tại khu vực thuộc tổ 5, khu M, phường B, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,549 gam (không phẩy năm trăm bốn chín gam) ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị Công an thành phố Cẩm Phả phát hiện bắt quả tang. Bị cáo là người có đủ năng lực pháp luật hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có cơ sở pháp luật.
[3]. Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
c) ... Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;...”.
[4] Methamphetamine là chất ma túy rất độc hại, bị Nhà nước cấm mua bán, tàng trữ, sử dụng. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý, kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an xã hội. Ma túy đang là hiểm họa của toàn xã hội, nó không những trực tiếp xâm hại đến sức khỏe về tinh thần, thể chất và tài sản của người sử dụng, gây lo lắng, buồn phiền cho những người thân trong gia đình, mà còn là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó hành vi phạm tội của bị cáo cần bị xử lý nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[5.1] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước.
[6] Về hình phạt:
[6.1] Về hình phạt chính: Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, sau khi cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và khối lượng ma tuý bị cáo đã tàng trữ, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định không những nhằm trừng trị mà còn để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, phòng ngừa chung cho xã hội, đáp ứng được mục đích của hình phạt.
[6.2] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng và tài sản khác bị thu giữ: Toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong 01 (một) phong bì số 80/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, là chất Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu và tiêu hủy. Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh đen, màn hình bị vỡ nứt, bên trong lắp 02 sim, sim 01 số 0965.055.189, sim 02 số 079.538.7973. không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.
Đối với số tiền 5.910.000 đồng (năm triệu một trăm chín mươi nghìn đồng) thu giữ của Nguyễn Văn T đã xác định được là tiền của chị Lục Thị Q (vợ của T) đưa cho T để trả tiền thuê nhà trọ, không liên quan đến hành vi phạm tội. Giai đoạn điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả trả lại số tiền trên cho chị Q, chị Q không có ý kiến hoặc đề nghị về tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Nguyễn Văn T quá trình điều tra không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên chưa đủ cơ sở xử lý theo pháp luật, Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt (ngày 17/12/2020).
2. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu và tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định, được niêm phong trong 01 phong bì số 80/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh. Trả lại cho bị cáo: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh đen, màn hình bị vỡ nứt, bên trong lắp 02 sim (sim 01 số 0965.055.189, sim 02 số 079.538.7973).
Tình trạng những vật chứng, tài sản nêu trên theo Biên bản giao vật chứng, tài sản số: 93/BB-THA lập ngày 05/4/2021 giữa Công an thành phố Cẩm Phả và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
3. Căn cứ vào: khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:
Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Căn cứ vào: các khoản 1 và Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 35/2021/HS-ST ngày 06/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 35/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về