Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 26/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 13/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 59/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Minh Q, sinh năm 1988 (có mặt).

Địa chỉ: ấp Tân P, xã Tân H, huyện PH, tỉnh Hậu Giang;

- Bị đơn: Chị Lê Thị N, sinh năm 1989 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp Lê Minh C, xã TĐ, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 01/4/2019, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Minh Q trình bày:

Về hôn nhân: Vào đầu tháng 8/2012, anh và chị Lê Thị N được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại UBND xã TĐ, huyện CLD vào ngày 10/8/2012. Thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, đến tháng 11 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng ý kiến trong cuộc sống, nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc và kể từ tháng 11/2017 thì anh và chị N sống ly thân cho đến nay.

Về con chung: Trong thời gian chung sống anh và chị N có 01 người con chung tên: Nguyễn Lê Gia H, sinh ngày 28/12/2013. Hiện cháu H đang sống chung với anh.

Về tài sản chung: Đã tự thỏa thuận xong. Về nợ chung: Không có.

Nay anh nhận thấy tình cảm giữa anh với chị N không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về hôn nhân: Được ly hôn với chị Lê Thị N.

Về con chung: Được nuôi dưỡng người con tên: Nguyễn Lê Gia H, sinh ngày 28/12/2013 cho đến khi thành niên. Việc cấp dưỡng nuôi cháu H thì anh không yêu cầu chị N cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Anh và chị N đã tự thỏa thuận xong; về nợ chung:

Không có nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn chị Lê Thị N đã được Tòa án thông báo và triệu tập hợp lệ từ khi thụ lý vụ án cho đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng chị N đều vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung phát biểu ý kiến tại phiên tòa: Qua thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý đến thời điểm tranh luận tại phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, chứng cứ được thu thập đầy đủ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, đối với bị đơn đều vắng mặt các lần Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và đều vắng mặt tại các lần mở phiên tòa xét xử. Cho nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo quy định của pháp luật.

Về nội dung giải quyết vụ án: Qua xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa cho thấy: Tình trạng hôn nhân giữa anh Nguyễn Minh Q với chị Lê Thị N đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, các bên đương sự hiện không ai quan tâm chăm sóc lẫn nhau, anh Q và chị N đã sống ly thân từ tháng 11/2017 cho đến nay. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử cho anh Q được ly hôn với chị N.

Về con chung: Đối với cháu Nguyễn Lê Gia H, sinh ngày 28/12/2013, từ khi anh Q và chị N sống ly thân đến nay thì anh Q là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H, nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu H cho anh Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi thành niên. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho chị N, không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Q không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi cháu H nên không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung: Anh Q cho rằng đã tự thỏa thuận xong; về nợ chung: Không có và anh Q không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn có địa chỉ tại ấp Lê Minh C, xã TĐ, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện CLD thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” là đúng với quy định của pháp luật.

[3] Đối với bị đơn chị Lê Thị N, tại phiên tòa đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo quy định của pháp luật.

[4] Về nội dung vụ án: Xét đơn yêu cầu về việc xin ly hôn của anh Nguyễn Minh Q đối với chị Lê Thị N, Hội đồng xét xử xét thấy: Về quan hệ hôn nhân của anh Q và chị N không vi phạm các điều kiện kết hôn và sau khi sống chung hai người có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TĐ, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy, mối quan hệ hôn nhân giữa anh Q với chị N phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, thiếu quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, tại phiên tòa anh Q vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu xin được ly hôn với chị N. Mặt khác, giữa anh Q với chị N đã sống ly thân từ tháng 11/2017 cho đến nay. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho anh Q được ly hôn với chị N.

[5] Về con chung: Đối với cháu Nguyễn Lê Gia H, sinh ngày 28/12/2013, từ khi anh Q và chị N sống ly thân cho đến nay, anh Q là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu H cho anh Q tiếp tục nuôi dưỡng đến khi thành niên là phù hợp với quy định của pháp luật. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho chị N, không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Q không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi cháu H nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về tài sản chung: Anh Q cho rằng đã tự thỏa thuận xong; về nợ chung: Không có và anh Q không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Lời đề nghị của Vị Kiểm sát viên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Anh Nguyễn Minh Q phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 5, khoản 1 Điều 28, Điểm a khoản 1 Điều 35, Điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 143, Điều 144, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Anh Nguyễn Minh Q được ly hôn với chị Lê Thị N.

2. Về con chung tên: Anh Nguyễn Minh Q được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên: Nguyễn Lê Gia H, sinh ngày 28/12/2013 đến khi thành niên. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cho chị N, không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Q không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi cháu H nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Về tài sản chung: Anh Q cho rằng đã tự thỏa thuận xong; về nợ chung: Không có và anh Q không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

 4. Về án phí: Anh Nguyễn Minh Q phải chịu là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà anh Q đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006066, ngày 02 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện CLD. Như vậy, anh Q đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Chị Lê Thị N không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2019/HNGĐ-ST ngày 26/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:13/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;