TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 13/2018/DS-ST NGÀY 02/03/2018 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI SỨC KHỎE VÀ TÀI SẢN
Trong ngày 02 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 95/2017/TLS –DS ngày 06/10/2017 về tranh chấp bồi thường thiệt hại tài sản và sức khỏe bị xâm phạm. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2018/QĐXXST – DS ngày 05/02/2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê T, sinh năm 1979 (có mặt)
Địa chỉ: khóm TA, phường H, thị xã B, tỉnh Sóc Trăng.
- Bị đơn: Ông Nguyễn C, sinh năm 1968 (có mặt), Anh Nguyễn P, sinh năm 1999 (có mặt) Cùng địa chỉ: khóm T, phường H, thị xã B, tỉnh Sóc Trăng.
- Người làm chứng: Bà Nguyễn M, sinh năm 1963 (xin vắng mặt) Địa chỉ: Khóm TA, phường H, thị xã B, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Lê T trình bày:
Vào lúc 11 giờ 50 phút ngày 19/8/2017, bà đẩy xe bán hàng bông mỗi ngày tới nhà bà Tư M (Nguyễn M) cư ngụ khóm TA, phường H thì có hai chiếc xe máy chạy ngược chiều, xe tốc độ nhanh, bà thấy hai chiếc xe chạy tốc độ nhanh không ai nhường ai, bà mới khoát tay cho hai xe thấy bà để tránh va chạm, chiếc xe ngược chiều chạy qua còn chiếc xe cùng chiều bà là của ông Nguyễn C và anh Nguyễn P điều khiển, không có giấy phép lái xe, trong người đều có nồng độ rượu, người ngồi sau là ông C bước xuống xe trước kiếm chuyện chửi bới bà, dùng những lời lẽ thô tục, còn anh P đề xe chạy qua mặt xe bà khoảng 03mét dừng lại, P xuống xe chạy lại chửi bà và dùng chân đạp bà té ngã xuống, sau đó P nằm lên bụng bà dùng tay đấm vào hang cua của bà rồi ông C cũng chạy lại đánh bà tấp nập, khi đánh nhau có một người đi đường ngang qua can ngăn và bà Tư M can ngăn. Bà bị đánh đến té đái trong quần, bị thương tích phần mền và chạm dây thần kinh. Xe hàng bông thì hôm đó bà đem theo ba triệu đồng để mua đồ hết 2.700.000đồng và bán được khoảng 1.000.000 đồng nhưng sự việc đã kéo dài lâu nên bà yêu cầu phải bồi thường cho bà số tiền 3.000.000 đồng đối với xe hàng bông. Khi bị đánh đến giờ sức khỏe của bà hiện nay cũng ổn định nhưng lâu lâu bà cũng bị lối nên bà cũng không có đi bán, quá trình khám bệnh bà không sử dụng sổ hộ nghèo vì bà bị đánh chứ không tự nhiên bệnh. Lúc mới bị đánh mấy ngày sau bà có đứng bán ở nhà, chứ không có đi bán.
Nay bà yêu cầu ông Nguyễn C và anh Nguyễn P bồi thường cho bà các khoản:
Tiền than thuốc theo toa vé ở Bệnh viện Long Mỹ 511.398đồng, toa vé tiền thuốc ở bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long 2.850.000đồng, toa vé tiền thuốc ở Bác sĩ Minh 900.000đồng. Tiền xe đi Long Mỹ đi và về 60.000đồng; đi bệnh viện Hoàn Mỹ đi và về 300.000đồng, đi bác sĩ M đi và về 25.000đồng/1 ngày x 6 ngày = 150.000đồng.Tiền ngày công lao động mỗi ngày 300.000đồng x 34 ngày (Từ ngày 19/8/2017 đến ngày 06/10/2017) = 10.200.000đồng.
Tiền mua đồ bán trên xe 2.000.000đồng. Rút lại yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần, danh dự, nhân phẩm.
* Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa hôm nay bị đơn ông Nguyễn C trình bày:
Sự việc xảy ra đánh nhau ngày 19/8/2017 đúng là ông có lỗi, vì lúc đó ông đã xỉn, hôm đó ông đi đám cưới cùng với con ông tên là P, trên đường đi về tới gặp xe bán hàng bông của bà T, con ông là P chạy tránh xe bà T bị té trầy xe nên ông mới lại hỏi bà T là thường chiếc xe cho ông, nhưng bà T chửi cha con ông trước, do có rượu trong người nên ông giơ tay lên định đánh bà T thì bà T dùng tay tát vào mặt ông một cái, ông có dùng tay đánh lại bà T nhưng không có trúng bà T. Sau đó P có thấy vậy nên chạy lại đánh bà T một cái, sự việc xảy ra thì cha con ông cũng biết lỗi, tại công an phường 2 cũng đã xin lỗi bà T và ông cũng có kêu vợ ông ra bệnh viện để nuôi bệnh bà T nhưng bà T không có nằm viện, nếu bà T nằm viện thì mọi chi phí điều trị ông đều chịu, bà T tự đi chích tư, khi đánh thì chỉ đánh có một cái cũng không đến nổi là bị thương tích nhiều, con ông là P không có ngồi lên bụng của bà T, ông không có đánh bà T. Ông cũng nhận lỗi đối với bà T, sự việc đã lỡ nên ông đồng ý bồi thường tiền thuốc cùng với tiền đồ bán hàng bông của bà T tổng cộng là 5.000.000 đồng, còn việc xin lỗi thì ông cũng đã xin lỗi rồi nên ông cũng xin bà T bỏ qua, gia đình ông cũng nghèo, đâu có tiền bồi thường cho bà T nhiều. Nếu bà T không đồng ý thì ông yêu cầu Tòa án xem xét theo quy định của pháp luật. Khi đánh nhau có người đi đường can ngăn nhưng không rõ họ tên và địa chỉ, còn bà Tư M khi chạy ra hai cha con ông đã lên xe và bắt đầu chạy về. Tại phiên tòa hôm nay ông đồng ý bồi thường cho bà T các khoản: tiền thuốc theo toa vé ở bệnh viện Long Mỹ, xe đi và về bệnh viện Long Mỹ 60.000đồng, ngày công lao động 01 ngày đi bệnh viện Long Mỹ 120.000đồng, tiền đồ bán trên xe 1.000.000đồng, còn lại các khoản khác không đồng ý bồi thường yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.
* Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Nguyễn P trình bày:
Sự việc đánh nhau như lời trình bày của cha anh là ông Nguyễn C trình bày là đúng, do anh thấy bà T đánh cha anh một cái vào mặt nên anh nóng lên mới lại đánh bà T một cái vào mặt chứ không có đánh đập bà T như lời bà T trình bày, khi đó bà T còn lại xe đẩy lấy khúc cây đánh vào đầu anh mấy cái nhưng anh có đội nón bảo hiểm nên không có bị thương gì. Anh thừa nhận là anh có rượu đánh bà T là sai nên anh cũng nhận lỗi đối với bà T và tại công an phường 2 anh cũng đã nhận lỗi đối với bà T. Còn việc bồi thường thì anh cũng thống nhất với cha anh là anh cùng với cha anh là ông C bồi thường cho bà T số tiền tổng cộng là 5.000.000 đồng vì anh cũng chỉ đánh bà T có một cái. Bà T cũng không bị tổn thương gì nhiều vì hai ngày sau là ngày 21/8/2017 khi anh chở mẹ anh tên Trần Ph đi chợ thì có nhìn thấy chị T còn đứng bán đồ hàng bông cho người ta. Anh có giấy phép lái xe chứ không phải không có. Tại phiên tòa hôm nay anh đồng ý với ý kiến và yêu cầu của ông C là bồi thường cho bà T các khoản: tiền thuốc ở bệnh viện Long Mỹ, xe đi và về bệnh viện Long Mỹ 60.000đồng, ngày công lao động 01 ngày đi bệnh viện Long Mỹ 120.000đồng, tiền đồ bán trên xe 1.000.000đồng, còn lại các khoản khác không đồng ý bồi thường yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.
* Phát biểu của kiểm sát viên:
- Việc tuân theo pháp luật về tố tụng: trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa những người tiến hành tố tụng và các đương sự cũng như người làm chứng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 ;
- Về việc giải quyết vụ án: Việc ông C, anh P thừa nhận có đánh bà T là ông C, anh P có lỗi việc bà T yêu cầu bồi thường là có căn cứ, tuy nhiên việc bà T không có nằm viện nhưng yêu cầu ngày công lao động 34 ngày là chưa phù hợp nghĩ nên đề nghị chấp nhận tiền ngày công lao động những ngày bà T đi khám và điều trị ở Long Mỹ, Hoàn Mỹ và bác sĩ M với mức 200.000đồng/01 ngày, đối với tiền xe đồ bà T bán trên xe theo bà T cho rằng số tiền bà yêu cầu bồi thường là 2.000.000đồng nhưng ông C, anh P đồng ý bồi thường cho bà T 1.000.000đồng đây là sự tự nguyện của ông C và anh P nghĩ nên ghi nhận. Đối với yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần, danh dự, nhân phẩm của bà T trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay bà T rút lại yêu cầu này nghĩ nên căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ đối với phần yêu cầu này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn rút lại một phần đơn khởi kiện; các đương sự không thỏa Tận được với nhau về toàn bộ nội dung vụ kiện.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: tại phiên tòa hôm nay người làm chứng bà Nguyễn M vắng mặt nhưng có yêu cầu giải quyết vắng mặt, và bà đã có lời trình bày trước đó, việc vắng mặt của bà M không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Nguyên đơn, bị đơn cũng như đại diện Viện kiểm sát đề nghị xét xử vắng mặt họ nên căn cứ khoản 2 Điều 229 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với bà M.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Lê T rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu ông Nguyễn C và anh Nguyễn P bồi thường tiền tổn thất tinh thần. Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy, việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện là hoàn toàn tự nguyện, không vượt quá phạm vi khởi kiện nên áp dụng khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
[3] Về nội dung: Do xuất phát từ việc sử dụng lối đi công cộng nên vào khoảng 11 giờ 50 phút ngày 19/8/2017 giữa bà Lê T, ông Nguyễn C và anh Nguyễn P lời qua tiếng lại ông C và anh P đánh bà T, việc này có bà Nguyễn M chứng kiến. Sau khi bị đánh bà T đi bệnh viện đa khoa thị xã Long Mỹ khám và điều trị, kế đến ngày 20/8/2017 bà T tiếp tục đi khám và điều trị ở bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long tại thành Phố Cần Thơ, ngày 21, 22, 24, 25, 27 và 28/8/2017 bà đi điều trị tại nhà của Bác sĩ M ở Phường H, thị xã B. Đến ngày 31/8/2017 bà T đi khám và điều trị bệnh tại bệnh viện đa khoa Trung ương Thành phố Cần Thơ. Tại phiên tòa hôm nay bà T yêu cầu ông C và anh P bồi thường tiền than thuốc theo toa vé ở Bệnh viện Long Mỹ 511.398đồng, bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long 2.850.000đồng, toa vé tiền thuốc ở Bác sĩ M 900.000đồng. Tiền xe đi Long Mỹ đi và về 60.000đồng; đi bệnh viện Hoàn Mỹ đi và về 300.000đồng, đi bác sĩ M đi và về 25.000đồng/1 ngày x 6 ngày = 150.000đồng Tiền ngày công lao động mỗi ngày 300.000đồng x 34 ngày (Từ ngày 19/8/2017 đến ngày 06/10/2017) = 10.200.000đồng. Tiền mua đồ bán trên xe 2.000.000đồng. Rút lại yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần, danh dự, nhân phẩm, không yêu cầu đối với toa vé đi khám ở bệnh viện đa khoa Trung ương và các toa vé cung cấp sau của tháng 11/2017. Đối với bị đơn ông C, anh P thừa nhận có đánh bà T nhưng chỉ đồng ý bồi thường cho bà T các khoản tiền: Tốc ở bệnh viện Long Mỹ 511.398, xe đi bệnh viện Long Mỹ 60.000đồng, ngày công lao động 01 ngày đi Long Mỹ 120.000đồng, tiền đồ bán trên xe 1.000.000đồng, còn lại các khoản khác không đồng ý bồi thường yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.
[4] Xét yêu cầu bồi thường tiền than thuốc khám và điều trị của bà T do bị ông C và anh P đánh của bà T thấy rằng trong quá trình giải quyết vụ án bà T có cung cấp các hóa đơn chứng từ của bệnh viện đa khoa thị xã Long Mỹ với số tiền là 511.398đồng, tiền khám và điều trị tại bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long với số tiền là 2.850.000đồng, tiền khám và điều trị tại nhà bác sĩ M số tiền là 900.000đồng, các chi phí này là có xảy ra trên thực tế và phù hợp với thương tích bà T bị đánh và phù hợp với lời trình bày của bà T, lời thừa nhận của bị đơn, người làm chứng cùng liệu chứng cứ khác nghĩ nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015; mục 4 phần I Nghị quyết 03/2006 ngày 10/8/2006 chấp nhận số tiền theo các toa vé nếu trên. Còn việc ông C và anh P cho rằng việc bà T tự đi khám ở Cần Thơ và đi khám tư bên ngoài không theo chỉ định của Bác sĩ nên không đồng ý bồi thường. Tuy nhiên việc bà T đi khám cũng là do bị đánh nên đi khám và các toa vé bà T cung cấp là phù hợp với thương tích cũng là các chi phí hợp lý theo quy định trên nên việc bà T yêu cầu bồi thường là có căn cứ chấp nhận. Đối với các toa vé điều trị tại bệnh viện đa khoa Trung ương với số tiền là 554.111đồng thấy rằng việc bà T có điều trị là có xảy ra trên thực tế tuy nhiên theo các toa vé này thì bác sĩ chuẩn đoán bà T bị viêm các khớp, hơn nữa sự việc xảy ra từ ngày 19/8/2017 bà T cũng đã đi khám tổng quát và lấy thuốc của bác sĩ bên ngoài uống bác sĩ cũng đã chuẩn đoán bà không có bệnh thương tích gì lớn chỉ bị chấn thương phần mềm cho nên các toa vé bà T khám và điều trị tại bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ là không phù hợp nhưng do tại tại phiên tòa hôm nay bà T cũng không yêu cầu bồi thường các toa vé này cũng là phù hợp nghĩ nên không đặt ra xem xét đối với các toa vé khám và điều trị bệnh của bà T tại bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ. Như vậy chấp nhận yêu cầu bồi thường tiền than thuốc theo toa vé của bà T với số tiền là: 4.261.398đồng. Trong đó 511.398đồng tiền khám và điều trị tại bệnh viện Long Mỹ; khám và điều trị tại bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long với số tiền là 2.850.000đồng, khám và điều trị tại nhà bác sĩ M số tiền là 900.000đồng.
[5] Xét yêu cầu tiền xe đi lại khi đi khám và điều trị bệnh của nguyên đơn thấy rằng việc bà T có đi khám và điều trị bệnh là có xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên qua xác minh thực tế xác định được số tiền chi phí đi từ nhà bà đến Cần Thơ là khoảng 70.000đồng/lượt đi và về là 140.000đồng bà cho rằng đi và về 300.000đồng là chưa phù hợp nghĩ nên điều chỉnh lại chi phí đi lại từ nhà bà T đến bệnh viện Hoàn Mỹ đi và về với số tiền là 140.000đồng. Chi phí bà T yêu cầu đi từ nhà bà đến bác sĩ M ở chợ TC là khoảng 25.000đồng/lượt thì đi và về là phù hợp với giá thực tế tại địa phương, chi phí đi lại ở Long Mỹ ông C, anh P thống nhất nên ghi nhận chi phí đi khám và điều trị ở Long Mỹ là 60.000đồng đi và về. Đối với yêu cầu này của bà T xét đây cũng là chi phí hợp lý do bị đánh nên việc bà T yêu cầu là có cơ sở, còn việc ông C và anh P không đồng ý tuy nhiên cũng không đưa ra căn cứ chứng minh việc bà T yêu cầu là không có căn cứ nghĩ nên căn cứ khoản 1 Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015 và tiểu mục 1.1 mục 1 phần II Nghị quyết 03/2006 ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chấp nhận phần yêu cầu tiền chi phí tiền xe đi lại của bà T là 350.000đồng (trong đó tiền xe đi và về từ nhà bà T đến Long Mỹ: 60.000đồng; tiền xe đi và về từ nhà bà T Khóm (TA) đến bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long (Cần Thơ) là 140.000đồng; tiền xe đi từ nhà bà T (Khóm TA đến nhà Bác sĩ M (Chợ TC) đi và về 25.000đồng x 6 ngày là 150.000đồng.
[6] Xét yêu cầu tiền ngày công lao động của bà T với mức 300.000đồng/01 ngày x 34 ngày (từ ngày bị đánh 19/8/2017 đến ngày làm đơn khởi kiện) nhận thấy rằng việc bà T có bị đánh là có cũng như có đi khám và điều trị là có như đã nhận định nêu trên tuy nhiên theo xác định của địa phương nơi bà T sinh sống thì với loại hình mua bán của bà T mỗi ngày thu nhập là khoảng 200.000đồng, bà T yêu cầu 300.000đồng là cao, còn đối với số ngày bà T đưa ra 34 ngày thấy rằng việc bà T có bị ông C, anh P đánh là có xảy ra trên thực tế việc này các bên đã thừa nhận tuy nhiên bà T không có nằm viện để điều trị mà chỉ đi khám và lấy thuốc về uống, thương tích do ông C và anh P gây ra không nghiêm trọng, bà cũng không có căn cứ gì chứng minh việc mất thu nhập do bị đánh trong 34 ngày hơn nữa bà T cũng thừa nhận sau khi bị đánh bà không đi bán nhưng có đứng bán ở nhà nên việc bà T yêu cầu ngày công lao động 34 ngày là không có căn cứ nghĩ nên căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015 và mục 1.2 phần II Nghị quyết 03/2006 ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chấp nhận tính ngày công lao động với những ngày bà T đi khám và điều trị như đã nhận đinh trên cụ thể là ngày 19/8/2017 (đi khám và điều trị tại bệnh viện Long Mỹ); ngày 20/8/2017 (khám và điều trị tại bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long); ngày 21, 22, 24, 25, 27 và 28/8/2017 (khám và điều trị tại bác sĩ M. Tổng số ngày là 08 ngày x 200.000đồng = 1.600.000đồng.
[7] Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại tiền mua đồ bán trên xe vào ngày xảy ra sự việc của bà T với số tiền 2.000.000đồng thấy rằng tại biên bản hòa giải ngày 23/10/2017 bà T xác định bà mua đồ bán vào ngày 19/8/2017 là 2.700.000đồng và khi đến nơi xảy ra sự việc (trước nhà bà M) bán được khoản 1.000.000đồng nhưng bà lại yêu cầu phía ông C, anh P bồi thường thiệt hại cho bà 2.000.000đồng là chưa phù hợp, không có căn cứ chứng minh, tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay ông C, anh P đồng ý bồi thường cho bà T số tiền mua đồ bán trên xe ngày xảy ra sự việc với số tiền là 1.000.000đồng, xét đây là sự tự nguyện của ông C, anh P không trái đạo đức xã hội nghĩ nên ghi nhận.
Như vậy các khoản tiền ông C, anh P có trách nhiệm bồi thường cho bà T các khoản: tiền xe đi lại 350.000đồng, toa vé khám và điều trị ở Long Mỹ 511.398đồng, toa vé khám và điều trị tại bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long Cần Thơ 2.850.000, toa vé khám và điều trị ở bác sĩ M 900.000đồng, tiền ngày công lao động 08 ngày đi khám và điều trị bệnh với mức 200.000đồng/01 ngày = 1.600.000đồng; tiền đồ bán trên xe 1.000.000đồng. Tổng số tiền là 7.211.398đồng (làm tròn số là 7.211.000đồng).
[8] Tại tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát thị xã Ngã Năm phát biểu: Việc chấp hành pháp luật của thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng là đúng theo quy định pháp luật. Việc ông C, anh P đánh bà T các bên cũng đã thừa nhận nên việc bà T yêu cầu bồi thường thiệt hại sức khỏe là có căn cứ, tuy nhiên việc bà T đưa ra các yêu cầu có phần chưa phù hợp nghĩ nên đề nghị HĐXX chấp nhận một phần yêu cầu của bà T. Đình chỉ phần yêu cầu bà T rút lại.
Từ những phân tích trên thấy lời đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận.
[9] Án phí bà T chịu 300.000đồng; ông C, anh P chịu 381.900đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí. Nhưng do bà T thuộc diện hộ nghèo, ông C và anh P thuộc diện hộ cận nghèo nên được được miễn nộp tiền án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 6 Điều 26, Điều 35; Điều 229 và khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 26, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2017 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về T, miễn giảm án phí, lệ phí Tòa án.
* Tuyên xử :
[1] Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Lê T buộc ông Nguyễn C và anh Nguyễn P cùng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại sức khỏe và tài sản cho bà Lê T với số tiền là 7.211.000đồng (Bảy triệu hai trăm mười một ngàn đồng).
[2] Đình chỉ yêu cầu của bà Lê T về việc yêu cầu ông Nguyễn C và anh Nguyễn P bồi thường tiền tổn thất tinh thần, danh dự, nhân phẩm. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng ông C cùng anh P còn phải trả lãi cho bà T theo mức lãi suất 10%/năm, đối với số tiền chậm thi hành án.
[3] Về án phí sơ thẩm:
- Bà Lê T, ông Nguyễn C, anh Nguyễn P thuộc trường hợp được miễn nộp án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí; nên không cần chịu án phí.
Án sơ thẩm xét xử công khai báo cho các đương sự biết có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án..
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả Tận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án 13/2018/DS-ST ngày 02/03/2018 về tranh chấp bồi thường thiệt hại sức khỏe và tài sản
Số hiệu: | 13/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Ngã Năm - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 02/03/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về