Bản án 1262/2020/HNGĐ-ST ngày 19/08/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1262/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/08/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 19 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 209/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4243/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Mok Gia H, sinh năm 1981 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: Nhật Bản, Osaka fu, Osaka shi, Ikunoku, Hayashiji, 4-10-21.

Bị đơn: Bà Đặng Anh T, sinh năm 1989 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: 115/9 A, Phường 5, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 27 tháng 4 năm 2020 và Bản tự khai ngày 03 tháng 8 năm 2020 nguyên đơn ông Mok Gia H trình bày:

Ông và bà Đặng Anh T đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 29/2016 do Ủy ban nhân dân Phường 5, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 06/5/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng ông chung sống hạnh phúc với nhau tại Nhật Bản đến tháng 4 năm 2019 thì bà Đặng Anh T trở về Việt Nam sinh sống và làm việc, ông ở lại Nhật Bản. Hiện nay ông và bà T mỗi người sống một nơi, tình cảm không còn nên ông yêu cầu được ly hôn bà Đặng Anh T.

Về con chung: Ông và bà Đặng Anh T có 01 con chung tên Mok Bách V sinh ngày 17/01/2018. Hiện nay trẻ V sống cùng với bà T, ông đồng ý giao con chung cho bà T nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, ông đề nghị tự thỏa thuận với bà T nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông xin vắng mặt khi tòa án giải quyết vụ án.

Tại Bản tự khai ngày 05 tháng 8 năm 2020, bị đơn bà Đặng Anh T trình bày:

Bà đồng ý ly hôn với ông Mok Gia H vì hai bên sống xa cách, tình cảm không còn.

Về con chung: Thống nhất với lời khai của ông Mok Gia H về con chung. Bà đồng ý tiếp tục được nuôi dưỡng trẻ Mok Bách V sinh ngày 17/01/2018. Về cấp dưỡng nuôi con, bà đề nghị tự thỏa thuận với ông Mok Gia H nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà xin vắng mặt khi tòa án giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền của Tòa án: Ông Mok Gia H là nguyên đơn hiện đang cư trú tại Nhật Bản, bị đơn bà Đặng Anh T cư trú tại 115/9 A, Phường 5, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. Do trong vụ án có nguyên đơn cư trú ở nước ngoài, bị đơn cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự:

Ông Mok Gia H và bà Đặng Anh T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Mok Gia H, bà Đặng Anh T.

[2] Về nội dung:

2 Về quan hệ hôn nhân:

Ông Mok Gia H và bà Đặng Anh T tự nguyện đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 29/2016 do Ủy ban nhân dân Phường 5, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 06/5/2016 nên là hôn nhân hợp pháp.

[2.1] Về yêu cầu xin ly hôn của ông Mok Gia H, Hội đồng xét xử xét thấy:

Sau khi kết hôn, vợ chồng có khoảng thời gian chung sống hạnh phúc, tuy nhiên hiện nay mỗi người sống một nơi, không quan tâm nhau. Nay ông Mok Gia H xác nhận không còn tình cảm với bà Đặng Anh T nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn, về phía bà Đặng Anh T cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông Mok Gia H. Điều này cho thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, yêu cầu của ông Mok Gia H xin ly hôn bà Đặng Anh T là có cơ sở, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Ông Mok Gia H và bà Đặng Anh T có lời khai thống nhất có 01 con chung tên Mok Bách V sinh ngày 17/01/2018, hiện nay con chung đang ở với bà T. Xét, bà T và ông Hoa cùng thống nhất giao trẻ Mok Bách V cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con đề nghị được tự thỏa thuận. Hội đồng xét xử nhận thấy sự thỏa thuận của các đương sự về việc nuôi con, về cấp dưỡng nuôi con là không trái quy định pháp luật, do đó có cơ sở chấp nhận.

[2.3] Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xét.

[2.4] Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xét.

[3] Về án phí:

Ông Mok Gia H là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điều 37, Điều 147, Điều 228, Điều 273, Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Điều 122, Điều 123 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa ông Mok Gia H và bà Đặng Anh T.

2. Về con chung: Giao con chung tên Mok Bách V sinh ngày 17/01/2018 cho bà Đặng Anh T trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con, hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Khi có căn cứ, cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, các bên có quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu, Tòa án không giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu, Tòa án không giải quyết.

5. Về án phí sơ thẩm:

Ông Mok Gia H chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0091880 ngày 26 tháng 6 năm 2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Mok Gia H đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật. Bị đơn có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 1262/2020/HNGĐ-ST ngày 19/08/2020 về ly hôn

Số hiệu:1262/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;