Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 03/01/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/01/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON

Ngày 03 tháng 01 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 292/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 9 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Văn Nữ Thị Tuyết N (Có mặt)

Địa chỉ: Thôn Xuân Đ, xã Phú X, huyện K, tỉnh Đắk Lắk

Bị đơn: Anh Nguyễn Công T (Vắng mặt)

Nơi cư trú cuối cùng: Thôn Xuân Đ, xã Phú X, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, chị Văn Nữ Thị Tuyết N trình bày: Chị và anh Nguyễn Công T là vợ chồng. Trong quá trình chung sống, chị và anh T có 02 con chung tên là Nguyễn Thảo N, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2001 và Nguyễn Văn K, sinh ngày 19 tháng 11 năm 2015. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy anh T bỏ nhà ra đi không có tin tức gì và đã được Tòa án tuyên bố mất tích, cho nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng nuôi dưỡng 02 con chung đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con, đồng thời không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề tài sản chung và nợ chung.

Tại bản tự khai ngày 15 tháng 10 năm 2019, cháu Nguyễn Thảo N trình bày:

Cháu là con của anh T và chị N. Sau khi anh T và chị N ly hôn, thì cháu có nguyện vọng ở với chị N.

Tại Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số 10/2019/QĐST – VDS ngày 20 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện K đã tuyên bố anh Nguyễn Công T, sinh năm 1979, nơi cư trú cuối cùng: Thôn Xuân Đ, xã Phú X, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, mất tích.

Tại phiên tòa, chị N giữ nguyên nội dung khởi kiện. Đại diện Viện kiểm sát sau khi phát biểu ý kiến đã khẳng định Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; chị N chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án, còn anh T đã bị Tòa án tuyên bố mất tích. Sau đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N cho chị N ly hôn với anh T. Giao con chung cho chị N nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung, nợ chung chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thụ lý vụ án + Chị N và anh T là vợ chồng. Trong quá trình chung sống, anh chị có 02 con chung. Hiện nay, anh T đã bị Tòa án đã tuyên bố mất tích, do đó chị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con. Như vậy quan hệ pháp luật ở đây là: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Chị N khởi kiện và có nộp tiền tạm ứng án phí. Anh T có nơi cư trú cuối cùng ở thôn Xuân Đ, xã Phú X, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vì vậy Tòa án nhân dân huyện K căn cứ vào các Điều 35, 39, khoản 3 Điều 195 của Bộ luật tố tụng dân sự để thụ lý vụ án.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Do anh T đã bị Tòa án tuyên bố mất tích vì vậy Tòa án căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[3] Về nội dung quan hệ pháp luật có tranh chấp

+ Về quan hệ hôn nhân Chị N và anh T là vợ chồng (có đăng ký kết hôn hợp pháp). Trong thời kỳ hôn nhân, anh chị phát sinh mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được dẫn đến anh T bỏ nhà ra đi, không có tin tức gì. Theo yêu cầu của chị N, Tòa án đã tuyên bố anh T mất tích, vì vậy chị N có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh T là có căn cứ pháp lý, phù hợp với khoản 2 Điều 68 của Bộ luật dân sự; Điều 51; khoản 2 Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N, cho chị N ly hôn với anh T.

+ Về con chung Chị N và anh T có 02 con chung. Sau khi ly hôn, chị N có nguyện vọng nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Đối với cháu N tính đến ngày xét xử thì cháu đã trên 18 tuổi nên không xem xét. Đối với cháu K thì hiện nay cháu đang ở với chị N, còn anh T đã bị Tòa án tuyên bố mất tích nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình giao cháu K cho chị N nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (Tròn 18 tuổi).

+ Về cấp dưỡng, tài sản chung, nợ chung Chị N không yêu cầu, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[4] Về án phí Vì đây là vụ án ly hôn, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, thì nguyên đơn là chị N vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 68 của Bộ luật dân sự; Điều 51; khoản 2 Điều 56 và Điều 81 của Luật hôn nhân gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Văn Nữ Thị Tuyết N về việc yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con.

+ Cho chị Văn Nữ Thị Tuyết N ly hôn với anh Nguyễn Công T.

+ Giao cháu Nguyễn Văn K, sinh ngày 19 tháng 11 năm 2015 cho chị Văn Nữ Thị Tuyết N nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, kể từ ngày tuyên án.

2. Về án phí: Chị Văn Nữ Thị Tuyết N phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí mà chị N đã nộp tại Chi cục thi thành án dân sự huyện K theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0002653 ngày 19 tháng 9 năm 2019.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2020/HNGĐ-ST ngày 03/01/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:01/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;