TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 126/2017/HNGĐ-ST NGÀY 01/12/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA CHỊ L VÀ ANH Đ
Ngày 01 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 35/2017/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2017 về việc ly hôn; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2088/2017/QĐST-HNGĐ ngày 20/11/2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn L, sinh năm 1983; nơi cư trú: Thôn 1, xã Trung Hà, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Bị đơn: Anh Hoàng Đ, sinh năm 1982; nơi cư trú: ĐKHKTT tại xóm 5 Đại Lộc, xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng; hiện cư trú tại: Số 91 đường Trung Sơn 3, quận Đại Nhã, thành phố Đài Trung, lãnh thổ Đài Loan.
Chị Nguyễn L và anh Hoàng Đ đều vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn và các bản tự khai của nguyên đơn chị Nguyễn L trình bày:
Chị và anh Hoàng Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện có làm thủ tục đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 14/12/2015. Ngay sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc tại nhà anh Đ đến ngày 19/12/2015 thì anh Đ đi lao động tại Đài Loan còn chị vẫn ở lại Việt Nam. Đến tháng 5/2016, anh chị phát sinh mâu thuẫn và chị L về nhà mẹ đẻ ở Vĩnh Phúc sinh sống. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh chị sống mỗi người một nơi, không tin tưởng nhau. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc hôn nhân của anh chị không hạnh phúc, mâu thuẫn đã trầm trọng và không có khả năng đoàn tụ nên chị L đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ. Về con chung và tài sản chung: Anh chị không có con chung, không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong bản tự khai gửi đến Tòa án, bị đơn là anh Hoàng Đ trình bày: Anh thống nhất với chị L về quá trình kết hôn, lý do ly hôn, con chung và tài sản chung. Thời gian đầu anh Đ không đồng ý ly hôn để vợ chồng đoàn tụ nhưng không được, do mâu thuẫn không cải thiện được nên anh đồng ý ly hôn và đề nghị Tòa án cho anh được ly hôn với chị L. Về con chung và tài sản chung: Anh chị không có con chung và không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên toà chị Nguyễn L và anh Hoàng Đ vắng mặt, có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.
Về yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn: Giữa chị L và anh Đ sống xa nhau từ năm 2015, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc hôn nhân của anh chị không hạnh phúc và không có khả năng đoàn tụ. Như vậy, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn L và anh Hoàng Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vào ngày 14/12/2015, theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Hiện anh Đ đang ở Đài Loan, chị L có đơn đề nghị Toà án giải quyết việc ly hôn của anh chị, theo quy định tại khoản 3 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.
Về sự vắng mặt của đương sự: Chị Nguyễn L và anh Hoàng Đ đều vắng mặt tại phiên tòa. Do anh Đ đang ở Đài Loan nên Tòa án đã có văn bản ủy thác tư pháp, ngày 5/10/2017 anh Đ về Việt Nam, cả anh Đ chị L đều có đơn đề nghị Tòa án sớm đưa vụ án ra xét xử so với lịch xét xử đã được ấn định trong thông báo thụ lý và xin được vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị L và anh Đ.
[2] Xét về nội dung:
- Về quan hệ hôn nhân: Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến ngày 19/12/2015 thì anh Đ đi lao động tại Đài Loan, còn chị L vẫn ở lại Việt Nam. Đến 5/2016 anh chị phát sinh mâu thuẫn và chị L về nhà mẹ đẻ ở Vĩnh Phúc sinh sống. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh chị sống mỗi người một nơi, không tin tưởng nhau, tình cảm vợ chồng không còn.
Xét, giữa chị L và anh Đ tình cảm vợ chồng không còn, cuộc hôn nhân của anh chị không hạnh phúc và không có khả năng đoàn tụ. Như vậy mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đề nghị ly hôn của chị L.
- Về con chung: Anh chị không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về tài sản chung: Anh chị không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo đối với bản án:
Chị Nguyễn L là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài.
Chị Nguyễn L và anh Hoàng Đ được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2, khoản 4 Điều 207; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 266; khoản 1 Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn L.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn L và anh Hoàng Đ được ly hôn.
- Về con chung: Anh chị không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về tài sản chung: Anh chị không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số 0003746 ngày 28/3/2017 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Về lệ phí ủy thác tư pháp: Chị Nguyễn L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) lệ phí ủy thác tư pháp để thu thập chứng cứ. Chị L đã nộp đủ theo biên lai số 0003819 ngày 30/5/2017 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.
- Về quyền kháng cáo đối với bản án:
Chị Nguyễn L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.
Anh Hoàng Đ được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.
Trong trường hợp bán án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 126/2017/HNGĐ-ST ngày 01/12/2017 về tranh chấp ly hôn giữa chị L và anh Đ
Số hiệu: | 126/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về