Bản án 125/2019/HSST ngày 06/08/2019 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 125/2019/HSST NGÀY 06/08/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 06 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 117/2019/HSST ngày 15/7/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119/2019/HSST-QĐ ngày 23/7/2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đỗ Quang T, sinh năm 1988; Giới tính: Nam. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn C, xã T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12. Con ông Đỗ Văn T1, sinh năm 1962 và bà Đinh Thị X, sinh năm 1965. Gia đình có 02 anh em, T là con thứ nhất. Bị cáo có vợ tên là Hồ Thúy H, sinh năm 1991; có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh 2015. Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/4/2019 đến ngày 25/4/2019. Bị cáo đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 113 ngày 15/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương.

2. Họ và tên: Đỗ Văn Đ, sinh năm 1984; Giới tính: Nam. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn C, xã T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn 3/12. Con ông Đỗ Văn Ng, sinh năm 1950 và bà Đỗ Thị V, sinh năm 1950; ông Ngận là thương binh hạng 3/4. Bị cáo có vợ tên là Vũ Thị Q, sinh năm 1992 (ly thân nhiều năm). Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/4/2019 đến ngày 27/4/2019. Bị cáo đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 114 ngày 15/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương.

Các bị cáo đều có mặt tại phiên tòa.

* Những người làm chứng:

1. Anh Đỗ Văn Th, sinh năm 1991;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn C, xã T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương;

2. Anh Nguyễn Văn Tr (tên gọi khác là Th1), sinh ngày 05/4/2001;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thôn Đông Q, xã T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương;

3. Anh Đỗ Văn H, sinh năm 1997;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn C, xã T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương;

4. Anh Phạm Văn L, sinh năm 1995;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn Bảo T, xã T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương;

5. Anh Đỗ Đình Đ, sinh năm 1989;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn C, xã T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương;

6. Anh Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1990;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn C, xã T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương;

7. Họ và tên: Đỗ Văn T2, sinh ngày 11/9/2001;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn C, xã T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương;

8. Anh Mai Văn H2, sinh năm 1987;

Nơi ĐKNKTT, chỗ ở: Thôn C, xã T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương;

Những người làm chứng đều có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13giờ 30phút ngày 14/02/2019, Nguyễn Văn Tr, Đỗ Văn Th, Đỗ Văn H đều trú tại xã T, thành phố Hải Dương đến nhà văn hóa Thôn C, xã T, thành phố Hải Dương để xem đá bóng. Tại đây, Tr, Th, H thấy ở lán để xe có một bộ bài tú lơ khơ nên rủ nhau đánh bạc bằng hình thức chơi ba cây. Hình thức chơi: người chơi sử dụng bộ bài tú lơ khơ gồm 36 quân bài, mỗi người chơi được chia 03 quân bài sau đó tính tổng điểm của các quân bài, nếu tổng 10 điểm là cao nhất và sẽ là người cầm chương của ván kế tiếp; 1 điểm là thấp nhất, bằng điểm sẽ tính theo thứ tự từ cao đến thấp theo chất của quân bài. Nếu người nào thấp điểm hơn người cầm chương sẽ bị mất số tiền đã đặt cửa cho người cầm chương, cao điểm hơn sẽ được người cầm chương trả số tiền bằng số tiền đã đặt cửa; mức đặt cửa thấp nhất là 20.000đồng, cao nhất không quy định. Đến khoảng 14h cùng ngày, Nguyễn Văn Ch, Đỗ Văn Đ, Đỗ Quang T, Đỗ Văn T2, Đỗ Đình Đ, Phạm Văn L và Mai Văn H2, đều cùng trú tại xã T, TP. Hải Dương cũng đến. Thấy Tr, Th, H đang đánh bạc nên cùng tham gia. Cả nhóm đánh bạc đến khoảng 17giờ cùng ngày thì bị Đội điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Công an TP. Hải Dương phát hiện bắt quả tang thu giữ tại nơi đánh bạc số tiền 2.350.000đồng; 36 quân bài tú lơ khơ; thu giữ trong ví của Đỗ Văn H số tiền 200.000đồng; Đỗ Văn Th số tiền 500.000đồng; Phạm Văn L số tiền 2.370.000đồng đều sử dụng đánh bạc. Ngoài ra trong quá trình bắt giữ, Mai Văn H2 bỏ chạy và cầm theo 70.000đồng. Sau khi phạm tội Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ bỏ trốn khỏi nơi cư trú; Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương đã ra Quyết định truy nã. Đến ngày 24 và ngày 26 tháng 4 năm 2019, Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ đến Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương đầu thú.

Quá trình điều tra xác định số tiền sử dụng đánh bạc như sau: Phạm Văn L sử dụng 2.600.000đồng; Đỗ Văn T2 sử dụng 240.000đồng; Đỗ Văn Th sử dụng 1.000.000đồng; Đỗ Đình Đ sử dụng 1.000.0000đồng đánh bạc; Nguyễn Văn Ch sử dụng 430.000đồng; Nguyễn Văn Tr sử dụng 400.000đồng; Đỗ Văn H sử dụng 300.000đồng đánh bạc; Mai Văn H2 sử dụng 70.000đồng đánh bạc; Đỗ Quang T sử dụng 200.000đồng đánh bạc, Đỗ Văn Đ sử dụng 60.000đồng để đánh bạc đều bị thua hết.

Về vật chứng: Đối với các vật chứng liên quan đến vụ án đã được giải quyết tại Bản án số 115/2019/HSST ngày 04/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, không có ý kiến hay khiếu nại gì.

Tại bản cáo trạng số 119/CT-VKSTPHD ngày 12/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố các bị cáo Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ về tội "Đánh bạc" theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự (được viết tắt là BLHS).

Tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện đúng như lời khai tại Cơ quan điều tra. Các bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi như nội dung bản cáo trạng nêu, xác định Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương đã truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật là hoàn toàn đúng, không thắc mắc gì về nội dung của bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ phạm tội "Đánh bạc". Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38; Điều 54 của BLHS đối với bị cáo Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ. Đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ, mỗi bị cáo từ 04 (Bốn) đến 06 (Sáu) tháng tù, được trừ thời gian tạm giữ; thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án; Hình phạt bổ sung: Phạt mỗi bị cáo từ 10.000.000đ đến 12.000.000đ sung quĩ Nhà nước;

Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết tại Bản án số 115/2019/HSST ngày 04/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương;

Về án phí: Căn cứ điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015; Nghị quyết số 326/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, các bị cáo Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ đều xác định rất ân hận về hành vi mà mình đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về những chứng cứ xác định các bị cáo có tội: Lời khai của các bị cáo khai phù hợp nhau và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ (BL số 207-211), lời khai của Đỗ Văn Th, Nguyễn Văn Tr, Đỗ Văn H, Phạm Văn L, Đỗ Đình Đ, Nguyễn Văn Ch, Đỗ Văn T2, Mai Văn H2 (BL số 281-299) và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13giờ 30phút ngày 14/02/2019, tại lán để xe của nhà văn hóa Thôn C, xã T, thành phố Hải Dương. Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ có hành vi đánh bạc, sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức đánh ba cây cùng với Đỗ Văn Th, Nguyễn Văn Tr, Đỗ Văn H, Phạm Văn L, Đỗ Đình Đ, Nguyễn Văn Ch, Đỗ Văn T2, Mai Văn H2. Đến 17giờ cùng ngày, tổ công tác thuộc đội Cảnh sát điều tra về trật tự xã hội Công an thành phố Hải Dương phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 5.490.000đồng (Năm triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng). Hành vi đánh bạc trái phép sát phạt nhau bằng tiền với tổng số tiền nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố Hải Dương. Các bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi trên là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo qui định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Do đó, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc Tòa án đưa các bị cáo ra xét xử nhằm giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội nên cần thiết xử lý nghiêm mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[2] Xét vai trò từng bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm có đông người tham gia nhưng là đồng phạm giản đơn, không có sự chuẩn bị, câu kết tổ chức chặt chẽ giữa các bị cáo, đều là đồng phạm với vai trò thực hành. Trong vụ án này các bị cáo đều tham gia đánh bạc, số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc không lớn. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không có căn cứ chứng minh được ai là người đề xuất, rủ rê, lôi kéo, ai là người chuẩn bị công cụ phương tiện phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ căn cứ lượng tiền dùng vào việc đánh bạc của từng bị cáo để phân hóa vai trò, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với từng bị cáo. Đối với bị cáo T và Đ đều là người thực hiện hành vi đánh bạc, quá trình đánh bạc T sử dụng số tiền đánh bạc nhiều hơn Đ nên cần đánh giá vai trò của T cao hơn Đ trong vụ án.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ đều là những người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đó là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Đ có bố đẻ là người có công với nước được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì, hạng 3 và là thương binh hạng 3/4; đồng thời cả hai bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật, tự nguyện đến Cơ quan Công an thành phố Hải Dương đầu thú nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét áp dụng cho các bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Về hình phạt chính: Bị cáo T và Đ đều không bị áp dụng tình tiết tăng nặng. Nhưng sau khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo đã bỏ trốn, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố. Cơ quan CSĐT Công an TP. Hải Dương đã ra Quyết định truy nã và Quyết định tách vụ án. Do vậy, xác định các bị cáo có ý thức coi thường pháp luật, đã vi phạm khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQQ-HĐTP ngày 06 tháng 11 năm 2013 của Hội đồng thẩm phán - Tòa án nhân dân Tối Cao. HĐXX căn cứ các quy định của pháp luật, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Xử các bị cáo một hình phạt nghiêm, tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt biết tôn Tr và chấp hành pháp luật. Tuy nhiên, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử có thể áp dụng cho các bị cáo được hưởng dưới mức thấp hơn của khung hình phạt được qui định tại Điều 54 của Bộ luật hình sự thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với các bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo T và Đ để tăng cường tính giáo dục và bổ trợ cho hình phạt chính.

[6] Về xử lý vật chứng: Đã được xem xét và giải quyết tại Bản án số 115/2019/HSST ngày 04/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương.

[7] Những vấn đề khác:

- Đối với Đỗ Văn Th, Nguyễn Văn Tr, Đỗ Văn H, Phạm Văn L, Đỗ Đình Đ, Nguyễn Văn Ch, Đỗ Văn T2 và Mai Văn H2 đã bị xét xử về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự tại Bản án số 115 ngày 04/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương.

- Đối với Mai Văn Tranh trong quá trình điều tra đến nay, cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương xác định chưa đủ căn cứ chứng minh hành vi vi phạm. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương tiếp tục đấu tranh làm rõ, khi đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật sau.

[8] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ.

1. Tuyên bố: Các bị cáo Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ phạm tội “Đánh bạc”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Đỗ Quang T 04 (Bốn) tháng tù, được trừ 01 ngày tạm giữ (từ ngày 24/4/2019 đến ngày 25/4/2019). Bị cáo còn phải chấp hành 03 (ba) tháng 29 (Hai mươi chín) ngày tù, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn Đ 03 (Ba) tháng tù, được trừ 01 ngày tạm giữ (từ ngày 26/4/2019 đến ngày 27/4/2019). Bị cáo còn phải chấp hành 02 (Hai) tháng 29 (Hai mươi chín) ngày tù, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321, khoản 2 Điều 35 của Bộ luật hình sự. Phạt tiền bị cáo Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ, mỗi bị cáo số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng chẵn) sung quỹ Nhà nước.

4. Về án phí: Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với các bị cáo Đỗ Quang T và Đỗ Văn Đ. Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo T và Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 125/2019/HSST ngày 06/08/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:125/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;