TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 115/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 07 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 193/2018/TLST- HNGĐ ngày 06/6/2018, về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình, ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 327/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/8/2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1979 (có mặt)
HKTT: Ấp Hòa Phú, xã Định Thành, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Cư trú: Ấp Đông Thành, xã Thạnh Đông A, huyện Tân Hiệp, Kiên Giang
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1971 (vắng mặt)
Cư trú: Ấp Hòa Phú, xã Định Thành, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thoại Sơn, nguyên đơn bà Trần Thị T trình bày: Tôi với ông Nguyễn Văn D chung sống với nhau từ năm 2003, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Định Thành, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa Tận, hạnh phúc và sinh được 02 con chung tên Nguyễn Thanh P, sinh năm 1995 (đã trưởng thành) và Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 16/11/2006. Đến năm 2013, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu Thuẫn, nguyên nhân do tánh tình không hợp, anh Phong thường xuyên đánh đập vợ con dẫn đến không khí gia đình ngày càng căng thẳng, vợ chồng đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên tôi yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn D; về con chung sau khi ly hôn tôi yêu cầu được nuôi con chung tên Nguyễn Thị Mỹ T, không yêu cầu ông D cấp dưỡng; về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung không có.
Về phía bị đơn ông Nguyễn Văn D: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ ông Nguyễn Văn D, nhưng ông D đều vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu của bà T nên Tòa án lập biên bản không hòa giải được và tiến hành đưa vụ án ra xét xử.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn phát biểu về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án, các đương sự cũng chấp hành đúng với quy định của pháp luật, riêng bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Về trình tự thụ lý, biên bản tống đạt, việc tuân theo pháp luật đảm bảo theo đúng trình tự quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án, qua xem xét toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn; bị đơn ông Nguyễn Văn D cư trú tại ấp Hòa Phú, xã Định Thành, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Theo quy định tại Điều 28, Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án Tộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn. Tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn D vắng mặt, Tòa án đã triệu tập hợp lệ hai lần. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông D.
[2] Về nội dung: Bà Trần Thị T chung sống với ông Nguyễn Văn D có đăng ký kết hôn tại UBND xã Định Thành, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang là hôn nhân hợp pháp nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Sau khi kết hôn, bà T và ông D có thời gian chung sống hạnh phúc, đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không hợp tánh tình, vợ chồng thường xuyên cư cải nhau, mỗi lần cự cải ông D thường đánh đập vợ con, làm cho không khí gia đình luôn căng thẳng, vợ chồng đã ly thân hơn hai năm nay, trong thời gian ly thân mỗi người sống mỗi nơi, không còn liên lạc nhau. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông D đến Tòa nhằm mục đích hòa giải hàn gắn quan hệ hôn nhân nhưng ông D vắng mặt và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu của bà T, nên Tòa án không thể hòa giải đoàn tụ được. Về phía bà T kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông D vì tình cảm vợ chồng không còn, nếu tiếp tục duy trì thì hôn nhân sẽ không hạnh phúc. Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân của bà T và ông D ngày 08/8/2018, Ban ấp Hòa Phú, xã Định Thành xác nhận hiện nay bà T với ông D không còn sống chung với nhau, đã ly thân rất lâu. Từ những nhận định phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa bà T với ông D mâu Thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Văn D.
[3] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống bà T với ông D sinh được 02 con chung tên Nguyễn Thanh P, sinh năm 1995 (đã trưởng thành) và Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 16/11/2006, hiện nay cháu Mỹ Tiên chung sống với bà T, được bà T chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định; qua lấy ý kiến của cháu Tiên thì nguyện vọng của cháu muốn sống với mẹ. Để tránh xáo trộn về mặt tâm lý, Hội đồng xét xử nghĩ nên giao cháu Mỹ Tiên cho bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của bà T không yêu cầu ông D cấpdưỡng nuôi con, bà T phải tạo điều kiện cho ông D được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung, khi cần thiết có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con theo quy định pháp luật.
[4] Về quan hệ tài sản chung: Do bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét; về nợ chung không có.
[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà T xin ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 điều 227, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH.14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Văn D.
- Về quan hệ con chung: Có hai con chung tên Nguyễn Thanh P, sinh năm 1995 (đã trưởng thành) và Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 16/11/2006. Bà Trần Thị T được nuôi con chung tên Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 16/11/2006, ông D không phải cấp dưỡng nuôi con. Bà T phải tạo điều kiện cho ông D được quyền đến thăm nom, chăm sóc con, khi cần thiết có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con theo quy định pháp luật.
- Về quan hệ tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Ghi nhận bà T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của bà T và ông D trong thời kỳ hôn nhân thì bà Trần Thị T và ông Nguyễn Văn D phải liên đới trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
- Về án phí sơ thẩm: Bà Trần Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai T số 0001197 ngày 06/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang (Bà T đã nộp xong).
Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại trụ sở UBND xã nơi đương sự cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án 115/2018/HNGĐ-ST ngày 07/09/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 115/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/09/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về