TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN B, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 12/2021/HSST NGÀY 12/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 3 năm 2021, tại Hội trường Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Điện B, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 79/2020/HSST ngày 02 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:
1/ Phan Trần Nguyên K, Sinh năm 2000, Sinh trú quán: Khối phố Phong N, phường Điện A, thị xã Điện B, tỉnh Quảng Nam, Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Phan T, Sinh năm 1963 và bà Trần Thị L, Sinh năm 1963, Tiền án: Chưa, Tiền sự: Vào ngày 15/7/2020 bị Công an thị xã Điện B ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái pháp chất ma túy với số tiền 750.000 đồng. Bị cáo hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường Điện A, thị xã Điện B, tỉnh Quảng Nam, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2/ Nguyễn Văn Th, Sinh năm 1986, Sinh trú quán: Khối phố Phong Nh, phường Điện A, thị xã Điện B, tỉnh Quảng Nam, Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ coppha; Con ông Nguyễn Th1, Sinh năm 1937 và bà Võ Thị T1, Sinh năm 1949, có vợ là Huỳnh Thị Thu K1, sinh năm 1988, có hai con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018, Tiền án, Tiền sự: Chưa. Nhân thân: Ngày 05/12/2017 bị Công an phường Vĩnh Đ, thị xã Điện B xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép. Bị cáo áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường Điện A, thị xã Điện B, tỉnh Quảng Nam. Ngày 27/01/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Điện B ra Quyết định truy nã bị cáo Nguyễn Văn Th. Ngày 08/3/2021 bị cáo Nguyễn Văn Th ra đầu thú, Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/3/2021, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Phan Anh Kh, Sinh năm 1988, trú tại Khối Phong Nh, phường Điện A, thị xã Điện B, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
Ông Trần Thế Th1, sinh năm 1991, trú tại Thôn Nhị D 2, xã Điện Ph, thị xã Điện B, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 27/8/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên bị cáo K điện thoại qua Zalo cho bị cáo Th rủ lên trại gà của ông Lê Viết Nh, ở thôn Nhị D 2, xã Điện Ph, thị xã Điện B, tỉnh Quảng Nam để sử dụng ma túy thì được bị cáo Th đồng ý. Sau đó, bị cáo K điều khiển xe máy hiệu Cup mang BKS 92CA – 020.72 đi qua đường ĐH8 bên bệnh viện Vĩnh Đức thuộc khối phố Quảng Hậu, phường Điện Nam Trung thì gặp người tên C (không rõ lai lịch), bị cáo K đưa cho C 500.000 đồng và nói mua giúp gói ma túy đá thì C đồng ý và cầm tiền chạy xe đi. Lúc này, bị cáo K điện thoại lại cho bị cáo Th nói bị cáo Th đi bộ ra chỗ đường mương trước nhà đợi bị cáo K qua đón. Sau khi nhận ma túy từ C, bị cáo K điều khiển xe chạy lên chở bị cáo Th cùng đến trại gà. Khi chở bị cáo Th đi được 200 mét thì bị cáo K nói với bị cáo Th là “lấy đồ rồi ” và đưa gói ma túy đá vừa mua cho bị cáo Th cầm xem. Sau khi cầm xem xong bị cáo Th đưa lại cho bị cáo K. Khi cả hai đi đến gần trại gà ông Nh thì bị cáo Th thấy có đông người đứng trong trại gà nên cả hai đứng lại và bị cáo Th nói với bị cáo K “Coi chừng Công an”. Bị cáo K nghe vậy nên đưa gói ma túy đá cho bị cáo Th cầm và nói bị cáo Th vứt đi, bị cáo Th cầm gói ma túy vứt vào bụi cỏ gần chỗ cả hai đang đứng. Lúc này, Công an xã Điện Ph đến kiểm tra thì phát hiện sự việc.
Tại Bản kết luận giám định số 930/C09C-Đ2 ngày 04/9/2020 của Phân viện KHHS tại Thành phố Đà Nẵng xác định chất rắn màu trắng dạng tinh thể thu giữ của Phan Trần Nguyên K và Nguyễn Văn Th là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,20 gam.
Vật chứng: Quá trình điều tra tạm giữ Phong bì màu trắng đã niêm phong 930/C09C-Đ2 ngày 04/9/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại Tp Đà Nẵng bên trong có 0,12 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định. 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, bên trong có sim số 0774440446 và sim số 0905769466 thu giữ của bị cáo K. 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, bên trong có sim số 0393738022 và sim số 0796558024 thu giữ của bị cáo Th.
Đối với xe môtô hiệu Cup BKS 92CA – 020.72, qua xác minh xe này do anh Trần Huỳnh Ch (sinh năm 1999, trú khối phố Phong Nh, phường Điện A, thị xã Điện B, tỉnh Quảng Nam) đứng tên chủ sở hữu nhưng đến tháng 5/2020 anh Ch bán lại cho anh Phan Anh Kh (sinh năm 1988, trú khối phố Phong Nh, phường Điện A, là anh ruột của K). Việc K mượn xe của anh Kh để đi mua ma túy sử dụng anh Kh hoàn toàn không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại cho anh Kh là phù hợp.
Tại bản cáo trạng số 74/CT-VKS ngày 02 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Điện B thì các bị cáo Phan Trần Nguyên K và Nguyễn Văn Th bị truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt các bị cáo: Phan Trần Nguyên K từ 15 tháng đến 18 tháng tù và Nguyễn Văn Th từ 15 tháng đến 18 tháng tù.
Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu tiêu hủy một phong bì màu trắng số 930/C09C-Đ2 ngày 04/9/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại Tp Đà Nẵng bên trong có 0,12 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định; Tịch thu sung công 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen thu giữ của bị cáo K; 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu đen thu giữ của bị cáo Th; Tịch tiêu hủy sim số 0774440446 và sim số 0905769466 thu giữ của bị cáo K; sim số 0393738022 và sim số 0796558024 thu giữ của bị cáo Th.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có lý do. Xét thấy việc vắng mặt những người này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Nên căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử đủ cơ sở xét xử vắng mặt những người này.
[2] Về tố tụng hình sự: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Điện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Điện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa các bị cáo K và Th thừa nhận vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 27/8/2020, tại khu vực trại gà của ông Lê Viết Nh ở thôn Nhị D 2, xã Điện Ph, thị xã Điện B, tỉnh Quảng Nam. Công an xã Điện Ph phát hiện bắt quả tang các bị cáo K và Th có hành vi tàng trữ 0,20 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của các bị cáo còn được chứng minh qua các biên bản sự việc lập hồi 12 giờ 50 phút ngày 27/8/2020, biên bản cân xác định khối lượng, thử mẫu phát hiện nhanh các chất ma túy và niêm phong vật chứng lập ngày 27/8/2020. Tại Kết luận giám định số 930/C09C-Đ2 ngày 04/9/2020 của Phân viện KHHS tại Thành phố Đà Nẵng xác định chất rắn màu trắng dạng tinh thể thu giữ của Phan Trần Nguyên K và Nguyễn Văn Th là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,20 gam. Methamphetamine là chất ma túy danh mục II, STT: 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Do đó hành vi của các bị cáo K và Th đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[4] Xét tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Chất ma túy đang là nguyên nhân làm gia tăng tội phạm và bạo lực trong xã hội; làm suy thoái nhân cách, phẩm giá, tàng phá cuộc sống yên vui của gia đình, gây xói mòn đạo lý, kinh tế xã hội; còn là tác nhân của căn bệnh thế kỷ HIV-AIDS. Các bị cáo K và Th có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, về động cơ mục đích phạm tội các bị cáo mua ma túy chỉ để cho bản thân sử dụng với trọng lượng là 0,20 gam, không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy khác.
[5] Xét vai trò của từng bị cáo: Trong vụ án này bị cáo K là người khởi xướng việc sử dụng trái phép chất ma túy và thực hiện việc mua ma túy, chính bị cáo là người liên hệ với đối tượng C để nhờ mua ma túy, do vậy bị cáo K phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo Th là thoả đáng. Đối với bị cáo Th tuy không khởi xướng và liên hệ mua ma túy để sử dụng; Tuy nhiên khi nghe bị cáo K khởi xướng việc dùng ma túy thì bị cáo Th đồng tình không có ý kiến gì, bị cáo Th phải chịu mức hình phạt thấp hơn bị cáo K. Ngoài ra trong quá trình áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bị cáo Th đã tự ý bỏ đi khởi nơi cư trú, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Điện B đã ra Quyết định truy nã đối với bị cáo, do đó hành vi của bị cáo đã gây cản trở cho hoạt động xét xử do đó Hội đồng xét xử xem xét cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo.
[6] Các bị cáo K và Th phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo K vào ngày 15/7/2020 bị Công an thị xã Điện B ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái pháp chất ma túy với số tiền 750.000 đồng, bị cáo Th có nhân thân xấu ngày 05/12/2017 bị Công an phường Vĩnh Đ, thị xã Điện B xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép, lẽ ra các bị cáo phải lấy đó làm bài học cho mình lo tu chí làm ăn nhưng các bị cáo lại tiếp tục phạm tội, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa bị cáo K khai nhận gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo Th sau khi bỏ trốn đến ngày 08/3/2021 ra đầu thú tại Cơ quan Công an thị xã Điện B, do đó Hội đồng xét xử áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Với hành vi và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi mà các bị cáo K và Th gây ra để các bị cáo có điều kiện cải tạo, giáo dục riêng, đồng thời răn đe và phòng ngừa chung cho những ai có tư tưởng như các bị cáo.
[7] Ngoài ra tại phiên tòa bị cáo K khai có ông nội và cậu ruột là liệt sĩ Phan Đ, Trần Văn T là người đã có thành tích trong cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc, đây không phải là đối tượng được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 và điểm c mục 5 Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[8] Đối với xe môtô hiệu Cup BKS 92CA – 020.72, qua xác minh xe này do anh Trần Huỳnh Ch (sinh năm 1999, trú khối phố Phong Nh, phường Điện A, thị xã Điện B, tỉnh Quảng Nam) đứng tên chủ sở hữu nhưng đến tháng 5/2020 anh Ch bán lại cho anh Phan Anh Kh (sinh năm 1988, trú khối phố Phong Nh, phường Điện A, là anh ruột của K). Việc K mượn xe của anh Kh để đi mua ma túy sử dụng anh Kh hoàn toàn không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại cho anh Kh là phù hợp.
[9] Đối với người có tên “C” Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa có kết quả. Khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.
[10] Tại phiên toà Hội đồng xét xử xét thấy lời đề nghị của Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Điện B về Điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.
[11] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” HĐXX xét thấy, các bị cáo có nghề nghiệp nhưng thu nhập không ổn định. Do vậy, không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[12] Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu tiêu hủy một phong bì số 930/C09C-Đ2 ngày 04/9/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại Tp Đà Nẵng bên trong có 0,12 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định; Tịch thu sung công 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen thu giữ của bị cáo K. 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu đen thu giữ của bị cáo Th; Tịch tiêu hủy sim số 0774440446 và sim số 0905769466 thu giữ của bị cáo K, sim số 0393738022 và sim số 0796558024 thu giữ của bị cáo Th. (Vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thị xã Điện B quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/12/2020).
[15] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của BLTTHS năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Phan Trần Nguyên K và Nguyễn Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt: Bị cáo Phan Trần Nguyên K 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Th 01 (Một) năm 06 (Sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 08/3/2021.
Vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 . Hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu tiêu hủy một phong bì số 930/C09C-Đ2 ngày 04/9/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại Tp Đà Nẵng bên trong có 0,12 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định. Tịch thu sung công 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen thu giữ của bị cáo K. 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu đen thu giữ của bị cáo Th. Tịch tiêu hủy sim số 0774440446 và sim số 0905769466 thu giữ của bị cáo K, sim số 0393738022 và sim số 0796558024 thu giữ của bị cáo Th. (Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự thị xã Điện B quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/12/2020).
Về án phí Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của BLTTHS năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Phan Trần Nguyên K và Nguyễn Văn Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, riêng những người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được cấp, tống đạt hợp lệ bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 12/2021/HSST ngày 12/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 12/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về