Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 29/06/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 12/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 87/2020/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 12/2020/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Dương Thị B - sinh năm 1983 (có mặt) Nơi ĐKHKTT: Thôn T1, xã C, huyện T2, tỉnh Bắc Giang

2. Bị đơn: Anh Đoàn Văn T - sinh năm 1983 (vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: Thôn N, xã Đ, huyện Ư, TP. Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn ly hôn, biên bản lấy lời khai chị Dương Thị B là nguyên đơn trình bày: Chị và anh Đoàn Văn T qua một thời gian tìm hiểu thì cả hai kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội năm 2006. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng anh chị vào Nam làm ăn, sinh sống. Giai đoạn đầu, cuộc sống chung của hai vợ chồng rất hạnh phúc. Sau một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không thể tìm thấy tiếng nói chung. Bản thân anh T không tu chí làm ăn, thường xuyên chơi đánh bạc, cá độ bóng đá. Đồng thời, vợ chồng mỗi khi mâu thuẫn là anh chửi, đánh chị. Có lần anh còn đổ xăng đốt xe máy và định thiêu sống chị nhưng chị chạy thoát còn xe máy bị đốt. Chị đã nhờ bố mẹ chồng, anh chị em gia đình chồng cũng như gia đình, bạn bè hai bên khuyên bảo nhưng anh T không thay đổi. Chị đã khuyên bảo quá nhiều lần, cũng đã cố gắng nhẫn nhịn chung sống nhưng càng ngày mâu thuẫn càng trầm trọng. Vì vậy, chị đã phải bỏ về nhà ngoại sinh sống khoảng 1 năm nay. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con chung: Chị và anh T có 02 con chung là Đoàn Thu T3 – sinh ngày 23/7/2007 và Đoàn Dương Hải N– sinh ngày 19/02/2015. Hiện hai cháu đang ở với anh T và ông bà nội. Do các cháu đều có quan điểm là đang ở ổn định với ông bà, quen các bạn và thầy cô nên không muốn thay đổi chỗ ở và mong muốn được ở với ông bà. Vì vậy, khi ly hôn, chị tôn trọng ý kiến của các con, đề nghị Tòa giải quyết để anh T nuôi cả hai cháu và hàng tháng chị sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con cho anh T là 2.000.000đ/tháng cho đến khi các cháu trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Về tài sản, công nợ chung: Chị không yêu cầu đề nghị Tòa giải quyết.

Anh Đoàn Văn T là bị đơn không có quan điểm, ý kiến gì.

Ông Đoàn Văn Điềm là bố anh T có ý kiến: Chị B và anh T kết hôn năm 2006. Sau đó, vợ chồng liên tục mâu thuẫn nguyên nhân chính là do anh T, nay chị B xin ly hôn, ông đề nghị Tòa giải quyết cho chị B được ly hôn anh T. Còn về con chung của chị B và anh T, thì hiện tại hai cháu đang ở với ông bà và bố nên khi ly hôn đề nghị Tòa gải quyết cho các cháu được ở với bố và chị B sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng 2.000.000đ/tháng. Đối với các văn bản tố tụng của Tòa mà ông nhận thay, ông đều đã giao ngay luôn trong ngày cho anh T.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, anh Đoàn Văn T vắng mặt lần thứ hai không có lý do, chị Dương Thị B có mặt và vẫn giữ nguyên ý kiến, không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa có quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân sự như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, tạo điều kiện cho họ được trình bày quan điểm, tiến hành hòa giải theo đúng quy định. Hội đồng tiến hành xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: đề nghị Tòa giải quyết xử cho chị Dương Thị B được ly hôn anh Đoàn Văn T. Về con chung, giao cho anh T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục hai cháu Đoàn Thu T3 – sinh ngày 23/7/2007 và Đoàn Dương Hải N – sinh ngày 19/02/2015; chị B có trách nhiệm cấp dưỡng cho anh T 2.000.000đ/ tháng kể từ khi Bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các cháu trưởng thành hoặc cho đến khi có thay đổi khác. Chị B phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Chị Dương Thị B đã làm đơn ly hôn theo mẫu và đã đóng dự phí ly hôn theo đúng quy định của pháp luật. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa tiến hành thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án, toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập anh Đoàn Văn T đến toà án làm việc theo đúng trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh T không có mặt. Hội đồng xét xử đã mở phiên toà ngày 13/6/2020 nhưng do sự vắng mặt của anh T nên Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, tại phiên toà hôm nay mặc dù được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh T vẫn vắng mặt, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử đối với vụ án.

[2] Về hôn nhân: Chị Dương Thị B và anh Đoàn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Ứng Hòa ngày 01/11/2006 là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống hạnh phúc thì xảy ra muân thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không tìm thấy tiếng nói chung;

đặc biệt anh T không tu chí làm ăn, chơi bởi, chửi đánh vợ. Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Nay chị B nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt, vợ chồng đã sống ly thân một thời gian nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh T. Anh T không có quan điểm, ý kiến.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương cung cấp: Do chị B và anh T trước đây không thường xuyên sinh sống tại địa phương nên địa phương không rõ mâu thuẫn, chứng kiến mâu thuẫn của vợ chồng anh chị. Xong thông qua gia đình thì biết nguyên nhân là do anh T không tu chí làm ăn. Hai vợ chồng sống ly thân khoảng 1 năm nay. Nay chị B có có đơn ly hôn chính quyền địa phương có ý kiến: đề nghị Tòa căn cứ vào thực tế và quy định của pháp luật để giải quyết đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ.

Xét thấy cuộc sống giữa chị B và anh T mẫu thuẫn từ lâu đã đến mức trầm trọng, sống ly thân, mục đích hôn nhân không đạt. Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị B là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

[3] Về con chung: Chị Dương Thị B và anh Đoàn Văn T có 02 con chung là Đoàn Thu T3 – sinh ngày 23/7/2007 và Đoàn Dương Hải N – sinh ngày 19/02/2015. Xét thấy, mặc dù anh T không có quan điểm, xong cháu T3 có nguyện vọng ở với ông bà nội; đại diện gia đình ông Điềm – bố anh T cũng có nguyện vọng để ông bà và anh T nuôi dưỡng các cháu; chị B đồng ý để anh T nuôi cháu T3 và Nam; chị sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng 2.000.000đ/ tháng cho đến khi các cháu trưởng T. Ý kiến của chị B hoàn toàn tự nguyện, không trái quy định về đạo đưc, xã hội cũng như quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy cần giao anh T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu T3, cháu Nam; chị B có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con cho anh T là 2.000.000đ/tháng kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các cháu trưởng thành hoặc có sự thay đổi khác là phù hợp với Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị Dương Thị B không yêu cầu đề nghị Toà giải quyết, anh Đoàn Văn T không có quan điểm, ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Dương Thị B phải nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định pháp luật. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều Điều 227, 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chị Dương Thị B được quyền ly hôn anh Đoàn Văn T.

2. Về con chung: Giao anh Đoàn Văn T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Đoàn Thu T3 – sinh ngày 23/7/2007 và Đoàn Dương Hải N – sinh ngày 19/02/2015; chị Dương Thị B có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con cho anh T là 2.000.000đ/tháng kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các cháu trưởng thành hoặc có sự thay đổi khác. Chị B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Dương Thị B phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ tiền án phí cấp dưỡng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009602 ngày 27 tháng 4 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội. Buộc chị B còn phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 29/06/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:12/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;