Bản án 121/2019/HS-ST ngày 19/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 121/2019/HS-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành Phố, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý 111/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2019/QĐXXST - HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn G - sinh năm 2000 tại Thanh Hóa. Nơi cư trú: phố D, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: LĐTD; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn L và bà Lê Thị H; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ: ngày 13/11/2018 đến ngày 22/11/2018 Cơ quan CSĐT ra quyết định trả tự do (chờ kết quả giám định); Bị cáo tại ngoại “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23h30’ ngày 13/11/2018 tại trước phố D, phường N, thành phố T, tổ công tác đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an thành phố Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn G có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra, thu giữ của G 01 gói nilong màu trắng, bên trong chứa 08 viên nén màu nâu dạng hình chữ nhật. G khai đó là thuốc lắc mua về để sử dụng.

Tại cơ quan điều tra G khai nhận: Do bản thân sử dụng ma túy, nên khoảng 23h ngày 13/11/2018 G đi đến khu vực cầu vượt phường Q, thành phố T. Tại đây Ggặp và mua của một người đàn ông nhưng không biết tên và địa chỉ 08 viên thuốc lắc với giá 3.200.000đ. Sau khi mua G cất trong người để về sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt giữ.

Tại bản kết luận giám định số 2357/MT-PC09 ngày 17/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Thanh Hoá kết luận: 08 viên nén màu nâu dạng hình hộp chữ nhật của phong bì niêm phong gửi giám định có khối lượng 3,993 gam (ba phẩy chín chín ba gam).

Phòng kỹ thuật hình sự từ chối giám định do vượt quá khả năng.

Tại bản kết luận giám định số 6495/C09-TT2 ngày 28/11/2018 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: 07 viên nén màu nâu dạng hình hộp chữ nhật gửi giám định đều là ma túy loại MDMA.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho G, do G không biết tên và địa chỉ của này nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh xử lý.

Tại bản cáo trạng số 102/CT-VKS ngày 28 tháng 02 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá truy tố bị cáo Nguyễn văn G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng: điểm c khoản 1 Điều249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 30 đến 36 tháng tù.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiền hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án thấy đủ cơ sở chứng minh: Vào khoảng 23h30 ngày 13/11/2018, tại phố D, phường N thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Văn G đã tàng trữ trái phép 08 viên ma túy có tổng khối lượng 3,993 gam loại MDMA

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội của Nguyễn Văn G có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là đúng pháp luật.

[3] Tính chất vụ án: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, xâm hại trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Mặc dù dị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng do xem thường pháp nên bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an chung cần phải xử lý nghiêm minh để giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Mặc dù bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng với tính chất nghiêm trọng của loại tội phạm về ma túy, mức độ hành vi phạm tội thì việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên khi áp dụng hình phạt cần căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5] Do bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng, trọng lượng ma túy không lớn, không có tính chất vụ lợi nên không cần phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với số ma túy thu của bị cáo được niêm phong bằng phong bì thư là vật nhà nước cấm lưu hành, sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy. Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

 [7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 BLTTHS. Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt: Nguyễn Văn G 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ trước 09 ngày từ ngày 13/11/2018 đến ngày 22/11/2018.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong bằng phong bì thư của Viện khoa học hình sự Bộ Công an có chữ ký chữ viết của Lưu Mạnh Hùng, Lê Thị Thanh Loan..

Số ma túy trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phốThanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 120/THA ngày 25/3/2019.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST

Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án đối với khoản tiền án phí theo quy định tại các điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tạiĐiều 30 Luật thi hành án dân sự.[[

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 121/2019/HS-ST ngày 19/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:121/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;