TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 12/2017/HSST NGÀY 09/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 09 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 14/2017/HSST ngày 20 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: Quàng Văn T - Sinh ngày 25/10/1998; Nơi ĐKNKTT và nơi ở: bản P, xã C, huyện S, Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Quàng Văn T, con bà Quàng Thị T; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt giữ, giam từ ngày 18/7/2017 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 23h40’ ngày 17/7/2017 tổ công tác Ban công an xã Mường Sại, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản T, xã M, huyện S phát hiện bắt quả tang Quàng Văn T đang có hành vi cất giấu viên nén màu hồng nghi là ma túy. Thu giữ tại túi quần bên phải T đang mặc 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa 02 viên nén màu hồng, do trọng lượng chất ma túy ít chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự nên cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã đã ra Quyết định trả tự do và bàn giao T cho Ban Công an xã Mường Sại đưa đi hỗ trợ cắt cơn nghiện ma túy 10 ngày tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy huyện Sông Mã. Hồi 17h45’ ngày 18/7/2017 trong lúc làm thủ tục tiếp nhận vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy, đã phát hiện tại túi quần nhỏ bên phải đang mặc của T có 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa 27 viên nén màu hồng T khai nhận là Hồng phiến nên tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.
Ngày 19/7/2017 tại Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong cân tịnh xác định trọng lượng, kết quả: 02 viên nén màu hồng có tổng trọng lượng 0,19gam đã dùng hết làm mẫu gửi giám định ký hiệu T, 27 viên nén màu hồng có tổng trọng lượng 2,61gam đã trích 10 viên có trọng lượng 0,92gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu T1, vật chứng còn lại 17 viên có tổng trọng lượng 1,69gam ký hiệu T2.
Kết luận giám định số 756/KLMT ngày 24/7/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T, T1 là chất ma túy; loại chất Methamphetamine. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 2,80gam. Loại chất Methamphetamine.
Quá trình điều tra Quàng Văn T khai nhận: Khoảng 20h ngày 15/7/2017 T đi bộ từ nhà ở bản P, xã C đến khu vực giáp danh biên giới Việt Nam - Lào gần cửa khẩu C thuộc bản C, huyện S mục đích để tìm mua Hồng phiến về sử dụng, khi đi đến khu vực rừng gần cửa khẩu thì T gặp một người đàn ông dân tộc Lào không biết tên, địa chỉ hỏi mua được 29 viên hồng phiến với giá 750.000VNĐ, sau đó mang về cất giấu ở ven đường gần nhà, đến khoảng 20h ngày 17/7/2017 T đến chỗ giấu gói Hồng phiến lấy ra 02 viên gói lại bằng giấy nilon màu xanh để vào túi quần phía sau đang mặc, còn 27 viên Tài gói vào giấy nilon màu xanh cất vào trong túi quần nhỏ phía trước đang mặc rồi đi đến bản T, xã M, huyện S chơi, khi đến bản T, T vào quán ngồi uống nước thì bị Tổ công tác Ban công an xã Mường
Sại kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ được 02 viên hồng phiến ở túi quần phía sau đang mặc, tổ công tác tiến lập biên bản, lập hồ sơ đưa T đi hỗ trợ cắt cơn nghiện 10 ngày tại cơ sở điều trị nghiện huyện Sông Mã, khi đưa T vào cơ sở điều trị cai nghiện qua kiểm tra cán bộ cơ sở phát hiện trong túi nhỏ phía trước đang mặc của T có 27 viên nén màu hồng nên đã báo Công an huyện lập biên bản, thu giữ vật chứng.
Tại phiên toà bị cáo Quàng Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện - Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện tội phạm. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 23h40 ngày 17/7/2017, biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 17h45 ngày 18/7/2017; phù hợp với vật chứng bị thu giữ gồm 29 viên nén nghi là Hồng phiến; phù hợp với Kết luận giám định số 756/KLMT ngày 24/7/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T, T1 là chất ma túy; loại chất Methamphetamine. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 2,80gam; loại chất Methamphetamine. Bị cáo cũng khẳng định bản thân nghiện ma túy nên bị cáo mua ma túy về chỉ với mục đích để sử dụng, ngoài ra không có mục đích nào khác.
Tại bản Cáo trạng số 125/KSĐT - MT ngày 20 tháng 10 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Quàng Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo khoản 1 Điều 194 BLHS.
Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý; Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 xử phạt từ 20 - 24 tháng tù; Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.Áp dụng Điều 41 BLHS, Điều 76 BLTTHS tịch thu tiêu hủy số ma túy và vật chứng liên quan.
Tại phiên tòa khi được nói lời sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi của mình đã vi phạm pháp luật, việc Tòa án đưa bị cáo ra xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là không oan, sai; tuy nhiên bị cáo đề nghị Tòa án xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa các thành viên của Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa, kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thủ tục tố tụng tại phiên tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 15/7/2017 Quàng Văn T đã mua được 29 viên Hồng phiến của một người đàn ông dân tộc Lào không quen biết ở khu vực bản C, xã C, huyện S mục đích mang về để sử dụng. Đến ngày 17/7/2017 tại bản T, xã M, T bị tổ công tác Ban Công an xã Mường Sai, huyện Sông Mã phát hiện bắt quả tang thu giữ 02 viên Hồng phiến, ngày 18/7/2017 trong khi làm thủ tục đưa T vào Cơ sở cai nghiện ma túy đã phát hiện và thu giữ thêm 27 viên Hồng phiến. Tổng số ma túy đã thu được của Tài là 29 viên có tổng trọng lượng là 2,80gam, loại chất Methamphetamine.
Hành vi tàng trữ 2,80gam Methamphetamine với mục đích để bản thân sử dụng của bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng đã bất chấp pháp luật cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.
Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Mặc dù khi bị Công an xã Mường Sai bắt quả tang bị cáo đang tàng trữ 02 viên Hồng phiến, bị cáo đã không khai báo số 27 viên Hồng phiến đang cất dấu trong túi quần, tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với việc làm của bản thân - áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
[4] Về việc áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015: Thời điểm bị cáo phạm tội Bộ luật hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật, nhưng tại điểm b, Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa 14 quy định : “ Các điều khoản của Bộ luật hình sự 2015 xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích ”.
Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “ Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật có hiệu lực thi hành ”.
Căn cứ các quy định nêu trên, so sánh quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 thấy:
Khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thì có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;
Khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 quy định về hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thì có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Như vậy khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định có lợi hơn cho người phạm tội - Cần xem xét áp dụng quy định tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 để quyết định hình phạt theo hướng có lợi cho bị cáo; Tuy nhiên cũng cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trọng lượng chất ma túy bị cáo tàng trữ để có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương. Bị cáo là người nghiện ma túy nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt.
[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định: “ Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm ”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên Cơ quan điều tra đã làm rõ gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng vụ án: Đối với 1,69gam Methamphetamine, mảnh nilon và vật chứng liên quan khác cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông dân tộc Lào bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết tên và địa chỉ cụ thể, ngoài lời khai của bị cáo không có chứng cứ khác chứng minh nên Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã không có căn cứ để điều tra mở rộng vụ án.
[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1- Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa 14; Khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Quàng Văn T 20 ( hai mươi ) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày tạm giữ, giam là ngày 18/7/2017.
2- Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS:
Tịch thu tiêu hủy:
- 1,69gam Methamphetamine, 01 ( một ) túi nilon màu xanh, 01 ( một ) phong bì thư bị cắt ngang một đầu, được đựng trong phong bì do bưu điện Việt Nam phát hành.
- 01 (một) mảnh nilon màu xanh.
- 01 (một) phong bì thư do bưu điện Việt Nam phát hành, một đầu phong bì có vết cắt ngang.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2017 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã ).
3- Về án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ ( Hai trăm ngàn đồng ) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 09/11/2017 ./.
Bản án 12/2017/HSST ngày 09/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 12/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về